Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nền kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng 4,7% trong năm 2023 do sức cầu trong nước và bên ngoài yếu đi, sau đó dự báo sẽ hồi phục về mức 5,5% trong năm 2024 và 6,0% trong năm 2025.
Lạm phát CPI bình quân trong năm ước đạt 3,5%, do dự kiến tăng lương công chức, sau đó giảm còn 3,0% trong năm 2024 và 2025 với giả định giá cả năng lượng và thương phẩm vẫn ổn định.
Cân đối ngân sách dự kiến có bội chi ở mức 0,7% GDP trong năm 2023 khi chính sách tài khóa vẫn phần nào hỗ trợ cho nền kinh tế, nhưng Chính phủ sẽ quay lại vị thế tài khóa thận trọng hơn trong năm 2024, phù hợp với chiến lược phát triển ngành tài chính giai đoạn 2021-2030. Tài khoản vãng lai dự kiến sẽ tiếp tục được cải thiện, nhờ xuất khẩu sẽ phục hồi ở mức khiêm tốn, số lượt du khách quốc tế tiếp tục phục hồi, và nguồn kiều hối vẫn đứng vững.
Chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 0,4% trong tám tháng đầu năm 2023, khiến số doanh nghiệp phải đóng cửa ngày càng nhiều. Tính trung bình, mỗi tháng có 15.600 công ty đóng cửa và hàng trăm nghìn công nhân bị mất việc. Tăng trưởng chung của lĩnh vực công nghiệp và xây dựng giảm còn 1,1% trong nửa đầu năm 2023.
Chính sách tiền tệ bị thắt chặt hơn nữa ở các nền kinh tế lớn và phát triển có thể sẽ lại nhen nhóm gây áp lực tỷ giá cho đồng nội tệ, dẫn đến dòng vốn tháo chạy ra ngoài.
Trong ngắn hạn, chính sách tài khóa Việt Nam nên tiếp tục hỗ trợ cho tổng cầu. Ngân sách đầu tư được triển khai đầy đủ, kết hợp với các bước nhằm tháo gỡ ách tắc về thủ tục đầu tư công, là cách để nâng đầu tư công lên 7,1% GDP trong năm 2023, so với 5,5% trong năm 2023, qua đó sẽ hỗ trợ cho tổng cầu.
Chính sách tiền tệ tiếp tục nới lỏng được cho là phù hợp, nhưng tiếp tục cắt giảm lãi suất sẽ làm gia tăng chênh lệch lãi suất với các thị trường trên toàn cầu, có khả năng gây áp lực đến tỷ giá. Để giảm nhẹ rủi ro tài chính đang gia tăng, các biện pháp nâng cao tỷ lệ vốn của các ngân hàng và tăng cường khung giám sát ngân hàng là cách để đảm bảo ổn định và khả năng chống chịu của khu vực tài chính.
Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang bị thu hẹp, chủ yếu do những bất ổn trong lĩnh vực bất động sản. Tâm lý thị trường đã phần nào ổn định do các quy định được sửa đổi kịp thời và các chính sách hoãn trả nợ, gồm cả tái cơ cấu trái phiếu.
Tuy nhiên, lượng trái phiếu phát hành của doanh nghiệp, đặc biệt là phát hành trái phiếu bất động sản, đã sụt giảm đáng kể. Dư nợ trái phiếu có vấn đề so với tổng tín dụng ngân hàng là tương đối nhỏ, nhưng những bất ổn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản có thể gây hiệu ứng lan tỏa sang khu vực ngân hàng.
Để giúp bình ổn thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước đã cho phép các ngân hàng mua lại trái phiếu chưa niêm yết có xếp hạng nội bộ cao nhất mà không cần phải chờ một năm sau khi bán. Ngân hàng nhà nước cũng chỉ đạo các ngân hàng triển khai gói tín dụng ưu đãi 120 nghìn tỉ đồng cho vay nhà ở.
Trong dài hạn, Việt Nam có tham vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần nâng cao năng suất qua cải thiện các nền tảng căn bản của khu vực tài chính, xử lý những ách tắc về thể chế trong đầu tư công nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt hạ tầng. Đồng thời, tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư nhân trong nước hoạt động hiệu quả hơn, bên cạnh việc xử lý những rủi ro về biến đổi khí hậu và bền vững môi trường.