Bằng những hoạt động của riêng mình, "Ông Tây An Nam" Andre Sauvageot đã đóng góp vào quá trình gian nan để bình thường hóa quan hệ giữa hai cựu thù.

LTS: Năm 1992, sau những nỗ lực không mệt mỏi của Đại tướng về hưu John Vessey, đặc phái viên của Tổng thống Ronald Reagan, về vấn đề POW/MIA (tù binh và người Mỹ mất tích), phía Mỹ đã cử TNS John Kerry dẫn đầu một phái đoàn vào Việt Nam. Trong thời gian ở Việt Nam, người phiên dịch cho đoàn trong các buổi tiếp xúc với phía Việt Nam là một người Mỹ - Andre Sauvageot, nói tiếng Việt giỏi đến mức nhiều người gọi ông là "Ông Tây An Nam".

Nhưng đóng góp chính của ông không chỉ là chuyện phiên dịch cho các phái đoàn Mỹ kể từ đầu những năm 1980. Mà bằng những hoạt động của riêng mình, ông đã góp phần vào quá trình lâu dài và gian nan để bình thường hóa quan hệ giữa hai cựu thù.

Tuanvietnam xin được ghi lại một vài hoạt động trong số đó.

Năm 1964, có một đại uý trẻ của Lục quân Mỹ được cử sang Việt Nam với vai trò cố vấn cho một quận trưởng của Chế độ Việt Nam Cộng hoà.

Chín năm sau, khi Hiệp định Paris được ký kết, viên sĩ quan Mỹ này kiên quyết từ chối kéo dài sự phục vụ của mình ở Việt Nam, mặc dù vẫn tiếp tục ở lại trong quân đội với một vai trò khác - sĩ quan huấn luyện tại một trung tâm ở Mỹ. Lý do viên sĩ quan này đưa ra là sự "cố đấm ăn xôi" của người Mỹ ở Việt Nam là vô nghĩa, và sự ủng hộ cũng như kỳ vọng của Chính quyền Washington đối với Chế độ Việt Nam Cộng Hoà là không có cơ sở!

Đó là Andre Sauvageot.

Andre đã cố gắng góp sức vào việc hàn gắn và phát triển quan hệ giữa hai nước, từ vị trí phiên dịch cho các phái đoàn Mỹ, chuyên viên phụ trách hồi hương của Bộ Ngoại giao Hoa kỳ đến doanh nhân, hay uỷ viên Hội đồng Thương mại Việt - Mỹ.

{keywords}

Andre Sauvageot nói chuyện với nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan nhân kỷ niệm 10 năm thực hiện hiệp định thương mại song phương Mỹ - Việt. Photo: Hoàng Ngọc

Một quyết định đúng lúc

"Một Việt kiều Mỹ đã giới thiệu tôi với công ty General Electric (GE), tôi có sang Việt Nam tham khảo ý kiến những người bạn ở Bộ Ngoại Giao như Lê Văn Bàng, và được khuyên là nên nhận lời. Ông Bàng nói GE sẽ có đóng góp lớn vào việc cải thiện quan hệ giữa hai nước", Andre kể lại lý do ông chọn GE ở Việt Nam thay vì một công ty khác ở Singapore, khi chương trình "Hồi hương tự nguyện" mà Andre tham gia kết thúc.

Tình bạn giữa Lê Văn Bàng và Andre Sauvageot đã được hình thành trong quá trình đàm phán Việt - Mỹ về vấn đề POW/MIA.

"Có những lúc cuộc tranh luận trong những năm cuối 1980 rất căng thẳng, hai bên không thoả thuận được với nhau. Ông ấy đã đứng ra dàn hoà hai bên, và làm cho không khí êm ái trở lại để đi đến kết quả, mặc dù ông chỉ là một phiên dịch. Sau này ông ấy nghiên cứu đường lối chính sách của chúng ta và chuyển ngữ sang tiếng Anh để giúp người Mỹ tại Mỹ hiểu rõ hơn lập trường của Việt Nam", ông Lê Văn Bàng nhớ lại.

Với tư cách đại diện của GE, suốt từ 1997 đến 2002, năm nào Andre Sauvageot cũng phải bay về Mỹ để thuyết trình trước Tiểu ban Thương mại của Uỷ ban Tài chính Hạ viện về việc tại sao GE đề nghị Quốc hội Mỹ ủng hộ quyết định của Tổng thống Bill Clinton, và sau này là Tổng thống George Bush (con), trong việc dỡ bỏ Tu chính án Jackson -Vanik, mở đường cho Eximbank có thể hỗ trợ tài chính cho các công ty Mỹ sang "cạnh tranh" ở thị trường Việt Nam.

"Một vấn đề mà tôi đã giải thích cho quốc hội Mỹ nhiều lần là tăng cường quan hệ thương mại với Việt Nam sẽ tạo việc làm cho người lao động Mỹ, bởi vì không có lý do gì mà không tạo cơ hội cho một công ty Mỹ sản xuất động cơ máy bay, hay đầu máy xe lửa, máy phát điện... cho Việt Nam", ông kể lại.

Sauvageot cũng liệt kê tên những công ty Mỹ đã cung cấp linh kiện cho GE để sản xuất động cơ máy bay. "Bản thân những hạ nghị sĩ ở Virginia, Ohio, hay California, nơi có những công ty kể trên, chắc cũng phải suy nghĩ về lá phiếu của những người lao động ở đó", Andre giải thích.

Trong các buổi điều trần như vậy thường hay có Hạ nghị sĩ Sander M. Levin (Tiểu ban Thương mại, Uỷ ban Tài chính & thuế vụ Hạ viện), bang Michigan, nơi có Trung tâm công nghiệp ô tô Detroit. Sau phiên điều trần cuối cùng vào tháng 7/2002, ông ta đã nói với Andre: "Tôi nhớ ông là nhân chứng ở đây từ bao năm rồi, và tôi rất cám ơn ông vì luôn nghĩ tới quyền lợi của người lao động Mỹ".

Và Andre thường hay kể cho người Mỹ nghe những câu chuyện thực tế, bởi đối với họ, những cá nhân cụ thể trong câu chuyện có sức thuyết phục hơn nhiều so với những đường lối, chính sách tuyên truyền chung chung.

{keywords}

Andre Sauvageot (bìa phải) phiên dịch cho phái đoàn của TNS John Kerry sang Việt Nam, trong nỗ lực bình thường hóa quan hệ, năm 1992. Photo Internet.

Sự vị tha của anh xích lô

Chuyện của người đạp xích lô, chuyên chở Andre, khi ông mới làm việc cho GE ở Việt Nam vào đầu năm 1993, là một trong những câu chuyện đó.

"Anh kể rằng bố anh đã bỏ mẹ anh, một người phụ nữ rất chịu thương chịu khó, để lấy một người phụ nữ trẻ hơn. Bà mẹ vẫn ở vậy nuôi con, nhưng rồi B52 đã thả bom giết bà.

Tôi nghẹn ngào mất mấy phút, rồi mới hỏi lại anh: "Bom B52 đã giết chết người mẹ mà anh rất yêu quý, tại sao anh không căm ghét những người Mỹ như tôi?"

"Mẹ tôi không phải là mục tiêu", anh xích lô trả lời.

"Vậy mục tiêu là gì?", tôi hỏi tiếp.

"Nhà máy xi măng", anh ta đáp."

Khi kể chuyện này với các nghị sĩ Mỹ, và Andre nói: "Ngay cả một người đạp xích lô bị bom Mỹ cướp đi người anh yêu thương nhất cũng sẵn sàng quên đi quá khứ để nhìn về tương lai, vậy các vị còn băn khoăn cái gì về những mất mát của Mỹ ở Việt Nam, vốn nhỏ bé hơn gấp nhiều lần mất mát của dân tộc này? Một nước hùng mạnh nhất thế giới về sức mạnh quân sự và kinh tế tại sao lại có cách cư xử hẹp hòi, định kiến về một dân tộc tử tế như vậy?"

"Làm gia công cho Mỹ mà lỗ thì kỳ lắm"

Andre đã nói như vậy với lãnh đạo GE khi khuyên họ ngồi lại vào bàn đàm phán để nâng giá gia công 2 chiếc stator lên cho Công ty Cơ khí Trung tâm Cẩm phả. Khi ký hợp đồng gia công stator cho máy phát điện mà GE đã trúng thầu cung cấp cho Nhà máy Thuỷ điện Hàm Thuận, đối tác phía Việt Nam cứ tưởng có thể gia công tất các các bộ phận, chi tiết, và chào giá rất thấp trên cơ sở tính toán của mình.

Nhưng khi các chuyên gia từ Canada sang kiểm tra lại toàn bộ máy móc thiết bị gia công, họ phát hiện ra có một vài thứ công ty này chưa thể gia công được. Họ đã yêu cầu phải đặt làm ở nước khác với giá giữ nguyên.

"Quý vị đã chào giá, hợp đồng đã ký", những người của GE buông gọn lỏn như vậy.

Andre bật lại: "Tôi đã khuyến cáo với họ rằng mối quan hệ làm ăn của một thương hiệu lớn như GE ở Việt Nam là lâu dài chứ không phải chụp giật, nên không thể xử sự kiểu đó."

Lập luận của ông đã được chấp nhận, và phía GE đã đồng ý nâng giá gia công lên một mức đáng kể với mức lãi chấp nhận được với GE.

Trước đó, trên cơ sở chính sách của GE là "toàn cầu hoá thị trường, địa phương hoá tài nguyên và nguồn nhân lực", cũng chính Andre đã thuyết phục được tập đoàn đồng ý giao cho công ty cơ khí ở Cẩm Phả này chế tạo 2 chiếc stator, thay vì phải nhập từ Canada. Đây là hợp đồng gia công đầu tiên ở Đông Nam Á về stator.

Khi hợp đồng được bắt đầu thực hiện thì người lo nhất chính là Andre. Ông xuống tận các phân xưởng chế tạo, hỏi han, trò chuyện với công nhân. "Tôi bảo rằng các công nhân Việt Nam phải khẳng định với người Mỹ những đức tính tốt đẹp của người Việt Nam là thông minh, sáng tạo và chịu khó", Andre kể lại.

Thấy một người Mỹ lại "sâu sát quần chúng" như vậy, tính tình lại cởi mở và nói tiếng Việt "miễn chê", anh em công nhân cũng kể những khó khăn của họ cho Andre nghe. Ông được biết rằng tuy hợp đồng với GE lớn như vậy, nhưng người công nhân của doanh nghiệp nhà nước vẫn hưởng lương như bình thường.

"Như vậy, khó khuyến khích họ đảm bảo tiến độ sản xuất lắm", Andre tự nhủ.

Ông đã gọi điện ngay về tổng hãng, đề nghị với GE dành một khoản tiền thưởng ngoài hợp đồng cho những người công nhân có thành tích lao động xuất sắc, hay phải làm tăng ca. (Vào dịp cao điểm mỗi ca bị kéo dài thành 12 tiếng).

"Theo tôi, trong mọi mối quan hệ, kể từ chuyện làm ăn giữa các đối tác đến quan hệ chung Mỹ - Việt, không được vi phạm nguyên tắc đôi bên cùng có lợi", Andre nheo mắt cười.

Huỳnh Phan

Tháng 3.1973, Sauvageot là người phiên dịch cho phái đoàn Mỹ ở cuộc họp quân sự bốn bên.

Từ 1982 đến 1986, ông làm phiên dịch cho Thứ trưởng Quốc phòng Richard Armitarge trong những buổi làm việc với Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch về vấn đề POW/MIA.

Từ năm 1987 đến 1989, ông là phiên dịch cho Đại tướng về hưu John Vessey - đặc phái viên của Tổng thống Reagan về vấn đề POW/MIA.

>> Mời độc giả ghé thăm và đóng góp ý kiến cho trang Fanpage của Tuần Việt Nam