Đây là khẳng định của Bộ Tài chính trong buổi họp báo ngày 27/5. Theo đó, sẽ chính thức áp dụng giá trần bán lẻ đối với các mặt hàng sữa từ 21/6, đối với bán buôn là từ sau 10/6.
Cụ thể, các DN căn cứ vào sản phẩm sữa của mình trong danh mục 25 sản phẩm sữa, lựa chọn sản phẩm sữa tương đương về trọng lượng, quy cách đóng gói, thông tin chất lượng sữa cần xác định giá bán tối đa.
Kiểm soát chặt giá sữa bột dành cho trẻ em. |
Căn cứ mức giá bán buôn tối đa của sản phẩm sữa lựa chọn nêu trên và tương quan về giá sữa sản phẩm sản phẩm sữa lựa chọn và sản phẩm sữa cần xác định giá để tính toán giá bán buôn tối đa của sản phẩm đó. Trong đó, tương quan về giá dựa vào thông tin theo dõi thị trường của tổ chức, cá nhân và các thông tin cần thiết.
Trường hợp thay đổi đóng gói, bao bì, mẫu mã, thông tin chất lượng,... thì được coi là sản phẩm mới và xác định giá tối đa mới. Yếu tố này đảm bảo việc không có chuyện DN giảm trọng lượng sữa để thoát khỏi giá trần.
Như vậy, không chỉ có 25 sản phẩm sữa mà Bộ Tài Chính công bố vừa qua mới bị áp giá trần, mà là tất cả các sản phẩm sữa khác cho trẻ em cũng sẽ bị áp giá.
Ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Vụ trưởng vụ pháp chế Bộ Tài Chính cho biết, những Doanh nghiệp không nằm trong số 5 DN có 25 sản phẩm sữa bị áp trần giá, cũng phải thực hiện việc xác định giá bán buôn tối đa với sản phẩm của mình.
Theo đó, để tính giá bán buôn, căn cứ vào danh mục sản phẩm của mình, tổ chức cá nhân lựa chọn sản phẩm có tương quan về trọng lượng, quy cách đóng gói, thông tin chất lượng gần nhất với sản phẩm thuộc 25 sản phẩm sữa để xác định giá tối đa.
Căn cứ vào giá bán buôn tối đa của sản phẩm thuộc danh mục 25 sản phẩm sữa sẽ tiến hành xác định giá bán buôn tối đa của sản phẩm sữa của DN (sản phẩm chuẩn). Giá bán buôn tối đa của các sản phẩm còn lại của DN sẽ dựa theo sản phẩm chuẩn này.
Trường hợp thay đổi trọng lượng, giá sẽ được xác định theo công thức: Giá bán buôn tối đa của sản phẩm sữa được chọn nhân với Trọng lượng sản phẩm sữa cần xác định/Trọng lượng của sản phẩm sữa đã lựa chọn.
Giá bán lẻ tối đa được xác định bằng giá bán buôn tối đa của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu cộng với các chi phí khác nhưng tối đa không quá 15% giá bán buôn.
Trong đó, tỷ lệ 15% dành cho trường hợp lưu thông sản phẩm sữa tới địa điểm xa nhất, chi phí phát sinh cao nhất.
Ngoài ra, giá bán lẻ được xác định cao hơn không quá 15% giá bán buôn, nhưng cũng được cao hơn giá bán lẻ trên thị trường, thời điểm trước khi Nhà nước áp dụng biện pháp bình ổn giá. Như vậy sẽ không có việc một số loại sữa tăng giá cao hơn sau khi áp trần như một số thông tin lo ngại.
PV