Những năm qua, bằng hành động cụ thể, các địa phương đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong thúc đẩy bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em gái DTTS. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, song tại một số nơi, vẫn còn phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số vẫn đang phải đối mặt với nhiều quan niệm, hủ tục lạc hậu ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền con người.

Trong kinh tế và phân công lao động phụ nữ DTTS bất lợi hơn, nên thường yếu thế hơn trong vai trò ra quyết định. Trong khi 74% hộ gia đình DTTS có nam giới đứng tên độc lập về quyền sở hữu đất đai và tín dụng thì tỷ lệ này ở người Kinh chỉ là 41%. Tình trạng bỏ học của học sinh diễn ra phổ biến, đặc biệt là việc duy trì việc học lên cấp trung học phổ thông. Nam DTTS từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết là 86,3%, trong khi đó tỷ lệ nữ chỉ 73,4% biết đọc, biết viết. Điều đáng lo ngại là ở độ tuổi dưới 16, trẻ em nữ DTTS kết hôn cao gấp 3,4 lần trẻ em nam (685 em trai và 2.306 em gái).

W-phunu-1.png
 Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, song tại một số nơi, vẫn còn phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số vẫn đang phải đối mặt với nhiều quan niệm, hủ tục lạc hậu.

Thực tế cuộc sống đã cho thấy, các tập tục văn hóa lạc hậu gây ra sức ép lớn đến việc thực hiện bình đẳng giới đối với phụ nữ, làm hạn chế sự phát triển toàn diện của phụ nữ và trẻ em các dân tộc. Đồng thời các hủ tục lạc hậu cũng góp phần tác động đến sự phát triển lâu dài của vùng DTTS.

Thứ nhất, ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý người phụ nữ khi cơ thể người mẹ chưa phát triển hoàn thiện, chưa sẵn sàng về mặt tâm sinh lý để mang thai và sinh con, điều này dễ xảy ra tình trạng người mẹ tử vong sau khi sinh hoặc rối loạn tâm lý hậu sinh. Đây còn là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em DTTS, tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em DTTS dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi, tăng tỷ lệ tử vong của bà mẹ DTTS liên quan đến thai sản.  Theo kết quả Điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2019, tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) của 53 DTTS năm 2019 là 22,13%. Các DTTS nói chung đều sinh sớm hơn so với mô hình chung của cả nước, trong đó phần lớn phụ nữ DTTS sinh con ở độ tuổi 20-24.

Thứ hai, phụ nữ DTTS kết hôn sớm thường ít có cơ hội tiếp cận với vấn đề đào tạo nghề. Theo Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ nữ DTTS đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chỉ là 8,9%, thấp hơn nam giới DTTS và phụ nữ dân tộc Kinh; không có nền tảng kinh tế vững chắc, không đủ các điều kiện tốt nhất để chăm lo cho con của họ gây khó khăn trong thực hiện an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, tạo ra lực cản đối với sự phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và sự phát triển bền vững của vùng đồng bào DTTS.

Thứ ba, phụ nữ và trẻ em gái kết hôn sớm, thường bỏ dở việc học hành, hạn chế việc tiếp thu những tri thức tiên tiến, hiện đại, ảnh hưởng đến việc phát triển nhân cách, tài năng; phải lao động từ sớm để trang trải cho cuộc sống gia đình, gây khó khăn trong bảo đảm các quyền của trẻ em; là đối tượng dễ bị kẻ xấu lợi dụng, dụ dỗ lừa lao động, hoặc là nạn nhân của tội phạm buôn bán người. Theo Cục trưởng Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) từ năm 2013-2019, Việt Nam có 3.476 người là nạn nhân của các vụ mua bán người, trong đó chủ yếu là phụ nữ và trẻ em (trên 90%), đa số là người DTTS.

“Tập tục lạc hậu bắt nguồn từ chức năng xã hội của tập tục đó và trình độ nhận thức của cộng đồng. Tập tục chỉ thay đổi, mất đi khi nó không còn giá trị và người dân nhận thức rõ những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến cộng đồng, mong muốn xóa bỏ.

Chính vì vậy, để có thể xóa bỏ, giảm thiểu các tập tục văn hóa có hại – các hủ tục ảnh hưởng đến sức khỏe của phụ nữ, trẻ em gái DTTS, rất cần sự chung tay của nhiều cơ quan, ban ngành và sự thay đổi từ trong quan niệm của chính đồng bào và chị em các dân tộc”, bà Nguyễn Thị Minh Hương, phó Chủ tịch Hội LHPNVN nhấn mạnh tại hội thảo “Xóa bỏ các tập tục văn hóa có hại cho sức khỏe, thực hiện nếp sống văn hóa mới”.

Lê Na và nhóm PV, BTV