“Giao tiếp không chạm” là xu hướng thế giới
Dư luận xã hội dường như rất hứng khởi với thông tin VinAI công bố nghiên cứu thành công công nghệ nhận diện không cần bỏ khẩu trang, đây có phải dự án “ăn theo” Covid 19 không thưa ông?
Công nghệ nhận diện khi dùng khẩu trang có giá trị lâu dài và toàn cầu, phát sinh từ nhu cầu thực tế, chứ không phải chỉ vì Covid 19. Tại Việt Nam, người dùng có văn hóa đeo khẩu trang, chủ yếu liên quan đến vấn đề ô nhiễm không khí. Tuy nhiên cần nói rằng dịch Covid 19 sẽ có ảnh hưởng lớn đến thói quen người dùng. Các nước Âu Mỹ trước đây gần như không tồn tại việc đeo khẩu trang thì giờ thói quen của người dân có thể sẽ khác. Thực tế, chúng tôi cũng phải chạy đua với hàng loạt đối thủ lớn nhất trên thế giới để nghiên cứu và đưa vào ứng dụng thực tế với thời gian sớm nhất.
Ông có thể cho biết, công nghệ nhận diện không cần bỏ khẩu trang sẽ được ứng dụng như thế nào trong cuộc sống?
Rất nhiều và rất thực tiễn. Trước hết công nghệ nhận diện không cẩn bỏ khẩu trang giúp nâng cao trải nghiệm người dùng, có thể ứng dụng để nhận diện đơn giản nhanh chóng trên điện thoại di động. Còn tại các công sở, tổ chức, doanh nghiệp, công nghệ nhận diện không cần bỏ khẩu trang đảm bảo kiểm soát nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm thao tác. Ưu việt của các giải pháp nhận diện khuôn mặt so với dùng vân tay là một phần của xu hướng contactless (giao tiếp không chạm), xu hướng của tương lai do ảnh hưởng của dịch Covid đến thói quen người sử dụng.
Công nghệ do VinAI phát triển có gì ưu việt hơn các công nghệ hiện có trên thế giới không? Và bao giờ, VinAI sẽ ứng dụng trên sản phẩm thương mại hóa, thưa ông?
Công nghệ nhận diện đã được phát triển khắp thế giới nhưng công nghệ nhận diện sử dụng khẩu trang thì chưa, ngay cả các hãng lớn như Google, Apple đều chưa tiến hành thương mại hóa thành công. Điểm ưu việt của chúng tôi phát triển là thuật toán và cách sử dụng công nghệ nhận diện cho hiệu quả ổn định, độ chính xác cao hơn hẳn các công nghệ hiện tại.
Về ứng dụng trên sản phẩm thương mại thì trước mắt, VinAI đang phối hợp với Vsmart triển khai công nghệ nhận diện khi dùng khẩu trang trên các dòng điện thoại thông minh mới. Với các đối tác khác, chúng tôi đã có lộ trình thương mại hóa nhưng xin phép được chia sẻ vào một thời điểm thích hợp.
Có một số ý kiến cho rằng, công nghệ nhận diện này sẽ là công cụ để kiểm soát tự do cá nhân, ông nghĩ sao về nhận định này?
Công nghệ được tạo ra là để phục vụ con người ngày càng tốt hơn. Chẳng hạn, Singapore có hệ thống camera công cộng khắp nơi nhưng không ai nói đó là một xã hội không văn minh. Còn tại Việt Nam, trong bối cảnh dịch Covid -19 diễn biến phức tạp, VinAI cũng sẵn sàng cung cấp công nghệ nhận diện mới nhất này cho các đối tác vì mục đích phục vụ y tế cộng đồng.
Phải có AI “Make in Vietnam” đẳng cấp quốc tế
Trước đó, với đa số người Việt Nam - AI là một lĩnh vực khá “bí hiểm” và Việt Nam là “vùng trắng” về AI. Ông có thể tiết lộ VinAI đã làm được gì trong hơn một năm qua?
VinAI ra đời nhằm góp phần để Việt Nam không còn là vùng trắng (cười). Sau một năm thành lập và đi vào hoạt động, VinAI đã vượt qua những khó khăn ban đầu, đang phát triển tốt 3 mảng chính: thứ nhất là nghiên cứu cơ bản về AI; thứ 2 là ứng dụng, chuyển giao công nghệ và thứ 3 là đào tạo tài năng trẻ về AI cho Vingroup và Việt Nam.
Ở mảng Nghiên cứu cơ bản về AI: mục tiêu của tôi là có công trình ở đẳng cấp hàng đầu thế giới thì hiện đã có những kết quả đầu tiên. Hàng loạt các bài báo do VinAI hoặc trực tiếp nghiên cứu, hoặc phối hợp cùng các cơ sở hàng đầu thế giới ở 3 mảng chính: máy học, thị giác máy tính, xử lý ngôn ngữ tự nhiên đã được công bố và chấp nhận tại các hội nghị đỉnh cao. Mảng máy học, ngoài 2 công trình đã công bố ở NeurIPS cuối năm ngoái, đội ngũ của Viện cũng đã có những thành công đầu khi giải quyết vấn đề tự động điều khiển robot trực tiếp từ các cảm biến camera, một công trình VinAI đóng góp với vai trò dẫn giắt và hợp tác với Đại Học Stanford, Google và Facebook. Mảng thị giác máy tính tiếp tục có những nghiên cứu chuyên sâu để cải tiến các phương pháp nhận diện khuôn mặt và hành vi. Mảng xử lý ngôn ngữ tự nhiên, VinAI đã công bố PhởBERT, một mô hình ngôn ngữ tiếng Việt có ngữ cảnh đầu tiên. Đây là một đóng góp quan trọng và mang tính chất nền tảng cho cộng đồng nghiên cứu xử lý ngôn ngữ tiếng Việt.
Ở mảng Ứng dụng, chuyển giao công nghệ: chúng tôi đã tạo ra những sản phẩm đầu tiên đến tay người dùng như công nghệ mở khóa bằng khuôn mặt trên điện thoại Vsmart, công nghệ nhận diện khuôn mặt áp dụng cho thành phố thông minh (smart city).
Ở mảng Đào tạo nhân tài trẻ cho AI: Hiện VinAI có đội ngũ 70 nghiên cứu, kỹ sư phần mềm, thực tập sinh. Trong đó, thông qua chương trình AI Residency Program, chúng tôi đã tập hợp được 25 bạn thực tập sinh, đóng góp nhất định vào công trình nghiên cứu của VinAI. Cá nhân tôi đánh giá đội ngũ nhân sự của VinAI hiện tại ngang bằng mặt bằng chung của các Lab hàng đầu trên thế giới.
Có vẻ như, đội ngũ nhân sự của VinAI là thành tựu tâm đắc của VinAI trong một năm qua?
Mục tiêu đặt ra rất lớn nhưng nếu không có con người thì không làm gì được. Từ 0 lên 70 là cả một chặng đường nhiều nỗ lực. Chúng tôi cần những người đã có kinh nghiệm, làm việc tại các cơ sở tốt nhất về AI từ các nước tiên tiến nhất để xây dựng mô hình hình tháp. Bên cạnh các Giáo Sư đang dạy ở các trường Đai Học Mỹ như GS Nguyễn Minh Hoài, GS Nguyễn Hữu Thiện, GS Lưu Anh Khoa, đội ngũ nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam cũng càng ngày càng lớn mạnh với những con người như TS. Trần Tuấn Anh (PhD USC, từng làm cho Amazon US), TS. Hua Binh Son (PhD NUS, từng làm tại ĐH Tokyo , TS. Nguyễn Quốc Đạt (PhD Macquarie, từng làm tại ĐH Melbourne), ThS Nguyễn Thành Lâm (MSc, TU Munich, từng là CEO của FPT Software).
Khi có hạt nhân phía trên là những người có uy tín, việc thu hút các nhân tố tài năng khác sẽ dễ dàng hơn. Hiện tại, chúng tôi đã bước sang giai đoạn sàng lọc, đánh giá tài năng để lựa chọn. Nó chứng tỏ mô hình trên đã hoạt động tốt.
Sau 1 năm đã rất thành công với đội ngũ nhân sự Top đầu, đẳng cấp ngang bằng với các Lab thế giới, vậy ông có thể chia sẻ về kỳ vọng của ông về VinAI trong 5-10 năm tới?
Giai đoạn tiếp theo, chúng tôi hướng đến phát triển một cách bền vững. VinAI đã khẳng định năng lực, được thế giới bắt đầu biết đến. Mục tiêu của chúng tôi là tiếp tục có những công trình nghiên cứu quan trọng hàng đầu, tạo ra các sản phẩm, ứng dụng thương mại hóa không chỉ ở thị trường Việt Nam mà còn ở quốc tế. Đây là thước đo quan trọng để khẳng định đẳng cấp của VinAI trong tương lai. Chúng tôi có sự đầu tư nghiêm túc, bài bản và có tầm nhìn. Mục tiêu lớn nhất chính là xây dựng và phát triển nền khoa học Việt, để tạo ra những sản phẩm "Make in Vietnam" ở đẳng cấp quốc tế. Tại VinAI, không ai được hài lòng với kết quả ban đầu.
Tiến sĩ Bùi Hải Hưng sinh năm 1973, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội, từng đảm nhiệm vị trí nghiên cứu cao cấp tại Google DeepMind, được đánh giá là nhà sáng chế trí tuệ nhân tạo tại Google. Ông có gần 100 công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên môn và hơn 10 bằng sáng chế về công nghệ tại Mỹ
Xin cảm ơn ông!