Liên quan tới vụ việc trẻ em 1 tháng tuổi tại Linh Đàm, Hoàng Mai, Hà Nội, bị bảo mẫu rung lắc, cháu bé đang được theo dõi tại Bệnh viện Nhi trung ương.
Trao đổi với VietNamNet, bác sĩ Trương Hữu Khanh, nguyên trưởng Khoa Nhiễm - Thần kinh, Bệnh viện Nhi đồng 1, TP.HCM, cho rằng đây là hành động cực kỳ nguy hiểm nhất là với trẻ quá nhỏ, thóp còn non chưa hoàn chỉnh.
Theo bác sĩ Khanh, hội chứng rung lắc ở trẻ em đã được cảnh báo rất nhiều nhưng người lớn còn chủ quan hoặc không biết. Nhiều cha mẹ có thói quen bế con lên và rung lắc. Khi rung lắc như vậy, khoảng cách giữa sọ và não gây nên dao động như bạn lắc ca nước. Sau rung lắc 1 đến 2 giờ, trẻ có thể quấy khóc, bỏ ăn, thay đổi tri giác, co giật. Trường hợp trầm trọng, trẻ có các biểu hiện ngừng thở, tím tái, hôn mê… khi đó, nếu không cấp cứu kịp, trẻ có thể tử vong. Trẻ càng nhỏ càng dễ bị ảnh hưởng bởi hành động rung lắc.
Bác sĩ Nguyễn Huy Hoàng, Trung tâm Oxy cao áp Việt - Nga, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga, Bộ Quốc phòng, cho biết hội chứng rung lắc ở trẻ nhỏ thường xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi, đặc biệt là trẻ dưới 9 tháng. Tại Mỹ, người ta thống kê ước chứng mỗi tháng có 100 bệnh nhi bị hội chứng này, khoảng 1/4 trong số đó tử vong.
Trẻ bị hội chứng rung lắc đa phần là do bố mẹ hoặc người chăm sóc trẻ tung hứng hoặc đung đưa, lắc trẻ quá mạnh khi chơi đùa với trẻ, khi bản thân họ căng thẳng hoặc chỉ đơn giản là để trẻ đỡ quấy khóc.
Nguyên nhân gây hội chứng rung lắc, bác sĩ Hoàng cho rằng do hộp sọ của trẻ mềm và lớn hơn nhiều so với tổ chức não, khoảng cách giữa nhu mô não và hộp sọ của trẻ lớn. Khi rung lắc sẽ gây va đập giữa nhu mô não và hộp sọ. Hậu quả tương tự như khi người lớn bị chấn thương sọ não. Do trọng lượng của đầu của trẻ bằng khoảng 1/4 cơ thể, cột sống cổ và các dây chằng chưa vững chắc, dễ chấn thương.
Khi trẻ bị rung lắc, ngoài va đập khiến đụng dập tổ chức não, các mạch máu bị tổn thương gây xuất huyết, tạo thành các đám máu tụ, gây tăng áp lực nội sọ.
Biểu hiện trẻ bị rung lắc sau 4 đến 6 giờ:
- Mắt lờ đờ do xuất huyết võng mạc, da tái xanh do mất máu, thóp có thể phồng.
- Quấy khóc, kích thích vật vã hoặc lơ mơ, li bì, không đáp ứng với xung quanh, thậm chí hôn mê, bỏ bú, bỏ ăn, buồn nôn hoặc nôn, thở chậm hoặc thậm chí ngưng thở.
- Một số trẻ có biểu hiện co cứng cổ và các chi, có thể co giật, hoặc cơ thể mềm nhẽo.
- Tổn thương cột sống cổ khiến trẻ bị ngoẹo đầu sang một bên hoặc hạn chế vận động vùng cổ.
Khi trẻ có biểu hiện trên, cha mẹ nên nhanh chóng đưa trẻ tới cơ sở y tế để bác sĩ cấp cứu.
Hội chứng rung lắc nếu không điều trị có thể dẫn tới biến chứng muộn, thậm chí nhiều năm sau mới biểu hiện như trẻ chậm phát triển trí tuệ, chậm nói, nghe kém, giảm thị lực, bại não, co cứng các khớp, co giật, động kinh.
Theo bác sĩ Khanh, việc điều trị hội chứng rung lắc chỉ can thiệp điều trị bảo tồn, cho trẻ thở oxy, an thần, dinh dưỡng. Trẻ bị nặng có thể đặt nội khí quản, thở máy. Nếu trẻ bị xuất huyết não nhiều chắc chắn để lại di chứng trong tương lai.
Về thói quen cho con nằm võng, bác sĩ Khanh cho biết rung lắc do nằm võng ít xảy ra hơn, phải rung lắc rất mạnh trẻ mới bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, trẻ nên nằm nôi bằng, không nên nằm võng. Nhiều trẻ được ba mẹ rung lắc có thể thích thú nhưng thói quen này nhiều nguy cơ té ngã và rung lắc não. Vì vậy, ông khuyến cáo người lớn nên bỏ ngay thói quen này.
Để ngăn ngừa hội chứng này, cha mẹ và người thân cần tránh những động tác xoay chuyển đầu trẻ một cách đột ngột như rung lắc nôi đối với trẻ nhỏ, không bao giờ bế thốc ngược, không xốc vác trẻ gấp gáp, không tung hứng trẻ khi nô đùa với con, không tát, đánh vào tai, vào đầu, vào mặt trẻ.