Việc NHNN cấm tín dụng vàng trong khi không xây dựng được thị trường vàng phái sinh, là nguyên nhân chính khiến cho vàng đột ngột trở nên khan hiếm.
Đến ngày 28.8, gần 57,6 tấn
vàng đã được bán qua 56 phiên đấu thầu nhưng thị trường vẫn hấp thụ hết, trái
ngược hoàn toàn với dự đoán của ngân hàng Nhà nước (NHNN) rằng nhu cầu vàng sẽ
giảm đi sau khi các tổ chức tín dụng tất toán xong trạng thái vàng vào ngày
30.6.2013.
Vậy vàng đi đâu? Theo tôi, câu trả lời nằm ở cơ chế quản lý thị trường vàng hiện
nay. Việc NHNN cấm tín dụng vàng trong khi không xây dựng được thị trường vàng
phái sinh, là nguyên nhân chính khiến cho vàng đột ngột trở nên khan hiếm.
Vàng vật chất, tín dụng vàng và vàng phái sinh
Khi tín dụng vàng được cho phép, lượng vàng giao dịch trong nền kinh tế có hình
thức tương tự như cung tiền mở rộng (M2), trong khi lượng vàng vật chất sẽ có
hình thức tương tự lượng tiền cơ sở (M0). Cung tiền mở rộng lớn hơn rất nhiều so
với cung tiền cơ sở, bởi vì nó được khuếch đại qua hệ thống tín dụng. Khi có tín
dụng vàng, lượng vàng giao dịch cũng được nhân lên rất nhiều lần nhờ cơ chế này.
|
Ta có thể minh hoạ cơ chế này như sau. Giả sử người dân sở hữu 10 tấn vàng vật chất và gửi vào hệ thống tín dụng. Các ngân hàng sau đó đem 10 tấn vàng này đi bán hoặc cho ai đó vay để bán. Khi đó, nhờ hệ thống tín dụng, nền kinh tế có thêm 10 tấn vàng nữa để đáp ứng nhu cầu sở hữu của người dân. Nếu người dân lại mang 10 tấn vàng này gửi vào một ngân hàng khác và ngân hàng này lại bán hay cho vay để bán thì nền kinh tế lại có thêm 10 tấn vàng nữa… Như vậy, chỉ với 10 tấn vàng vật chất, nhờ hệ thống tín dụng, có thể đáp ứng được tới 30 tấn vàng nhu cầu sở hữu của người dân.
Nếu vì một lý do gì đó mà hệ
thống tín dụng bị tê liệt, không huy động được tiền của người dân thì NHNN sẽ
phải bơm ra một lượng tiền mặt M0 tương đương với lượng tiền M2 để đáp ứng nhu
cầu thanh khoản.
Hàm ý tương tự cho thị trường vàng khi NHNN cấm tín dụng vàng trong thời gian
qua. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản như trước khi cấm tín dụng vàng, thị trường
cần một lượng vàng vật chất tương đương với lượng vàng giao dịch đã được khuếch
đại thông qua hệ thống tín dụng.
Trên thế giới, để đáp ứng nhu cầu giao dịch với một lượng vàng vật chất hữu hạn
(khoảng 170.000 tấn vàng sẵn sàng giao dịch, tương đương khoảng 2.500 tỉ USD),
hệ thống tài chính phát minh ra giao dịch vàng phái sinh thay vì sử dụng hệ
thống tín dụng. Xét về bản chất, một chứng chỉ vàng được mang ra giao dịch cũng
là một loại tiền được đảm bảo bằng vàng. Lượng vàng giao dịch trên các sàn giao
dịch tăng khi người dân quan tâm nhiều hơn tới vàng và giảm khi họ quan tâm ít
đi.
Trong số các loại tài sản, vàng là loại tài sản có mức thanh khoản (tức có lượng
mua bán trên tổng giá trị) đứng hàng thứ hai chỉ sau trái phiếu chính phủ Mỹ.
Hàng ngày có tới gần 70 tỉ USD, tức khoảng 2,8% tổng lượng vàng sẵn có, được
giao dịch trên thế giới. Nói cách khác, lượng vàng giao dịch trên thế giới trong
một năm lớn hơn tới chục lần so với lượng vàng vật chất sẵn có. Dịch chuyển vàng
vật chất trên thế giới thực chất chỉ diễn ra giữa những cá nhân hoặc đơn vị thực
sự cần vàng vật chất như các định chế tài chính, các công ty công nghệ, và nhà
chế tác nữ trang.
Việc NHNN bỏ hệ thống tín dụng vàng trong khi không xây dựng thị trường vàng
phái sinh để đáp ứng nhu cầu giao dịch, ắt khiến cho nhu cầu về vàng vật chất
tăng lên đột ngột tại Việt Nam. 50 tấn vàng mà NHNN cung thêm ra thị trường
trong thời gian vừa qua có lẽ vẫn còn nhỏ so với nhu cầu giao dịch thực sự của
thị trường.
Hệ luỵ của chính sách vàng hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường, sự thịnh vượng có được là nhờ vòng quay của vốn.
Vòng quay vốn càng nhanh là một chỉ dấu cho một nền kinh tế phát triển. Khi các
thị trường tài sản như chứng khoán và đất đai giao dịch ảm đạm, không chỉ các
thị trường đó trì trệ, mà nền kinh tế nói chung trì trệ.
Điều tương tự có thể còn đúng hơn đối với thị trường vàng, bởi vàng là một loại
tài sản có mức thanh khoản cao nhất trong số các loại tài sản. Việc đóng băng
loại tài sản này chẳng khác gì đem một lượng tiền khổng lồ “chôn xuống đất”. Bởi
hầu như toàn bộ lượng vàng mà người dân Việt Nam nắm giữ đều là nhập khẩu, nên
khi người dân đem vàng gửi vào các két ngân hàng hoặc cất trong tủ ở nhà thì một
lượng ngoại tệ tương ứng đang được người dân “giam cầm”, hoàn toàn không tham
gia vào việc tạo thêm các giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Nếu NHNN tiếp tục chính sách hiện nay thì có thể NHNN sẽ phải nhập thêm cả trăm
tấn vàng nữa, tức khoảng 4 – 5 tỉ USD, để đảm bảo nhu cầu giữ và giao dịch vàng
của người dân như trước đây. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái mà
còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Với lượng vốn đầu tư tiếp tục suy giảm,
huy động vốn nước ngoài khó khăn, và tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ dao động
quanh mức 5% từ năm ngoái tới nay thì việc mang số tiền 5 – 10 tỉ USD để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản vàng là một hành động cực kỳ “xa xỉ” của NHNN.
NHNN nên làm gì?
Có thể nói, không có lực lượng nào làm tăng tốc độ “vàng hoá” nền kinh tế nhanh
như NHNN đã làm trong thời gian vừa qua, nếu coi “vàng hoá” là việc người dân
nắm giữ vàng vật chất. Đây là điều ngược hẳn với mong muốn ban đầu của NHNN.
Nếu NHNN muốn giảm việc nhập khẩu vàng và tiến tới giảm lượng vàng vật chất
trong dân, trong khi vẫn đáp ứng được nhu cầu nắm giữ và giao dịch vàng của
người dân, thì NHNN hoặc phải quay trở lại với chính sách tín dụng vàng như
trước đây hoặc phải đẩy nhanh việc hình thành sàn vàng. Không còn con đường nào
khác.
Có lẽ việc quay trở lại chính sách tín dụng vàng là điều NHNN không mong muốn.
Như vậy, NHNN chỉ còn con đường đẩy nhanh hình thành sàn vàng tập trung để tăng
tốc độ giao dịch. Càng chậm trễ việc hình thành sàn vàng, NHNN sẽ còn phải tiếp
tục nhập thêm rất nhiều vàng vật chất nữa để đáp ứng nhu cầu giao dịch của người
dân.
Trong thời gian chờ đợi việc hình thành sàn vàng tập trung chính thức, thì dịch
vụ mua bán vàng qua mạng (e-gold) của Tien Phong Bank có lẽ là một bước khởi đầu
tự phát trên con đường này. NHNN nên khuyến khích các tổ chức tín dụng khác làm
như vậy.
-
Theo Đinh Tuấn Minh/ SGTT