- Tôi có một vấn đề khó khăn muốn nhờ luật sư tư vấn. Tháng trước chồng tôi giấu gia đình vay một khoản tiền của một người cho vay nặng lãi, số tiền là 220 triệu đồng, và còn thoả thuận số tiền lãi là 30 triệu đồng/tháng. Vì không có tiền trả lại nên chồng tôi đã xin bố mẹ và vợ trả giúp. Tuy nhiên gia đình tôi không chấp nhận được số tiền lãi cao như thế. Bên cho vay thì khăng khăng giữ thoả thuận ban đầu. Luật sư cho tôi hỏi số tiền lãi thoả thuận như trên đã vi phạm luật hay chưa, tôi có thể kiện người cho vay nếu đưa ra được bằng chứng anh ta cho chồng tôi vay nặng lãi hay không? Vì số tiền này chồng tôi vay chơi cờ bạc, vậy chồng tôi có vi phạm luật gì không, nếu có thì sẽ bị phạt như thế nào? (Trên thực tế hai bên cho vay không có giấy tờ gì cả, chỉ thoả thuận miệng thôi!)

TIN BÀI KHÁC

{keywords}
Chồng tôi vay tiền để đánh bạc, liệu có vi phạm pháp luật? (Ảnh minh họa)

Nội dung bạn đọc Doan Ly hỏi, Luật sư Phạm Thị  Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội trả lời:

Thứ nhất: Lãi suất cho vay.

Theo Quyết định số 2868/QĐ -NHNN ngày 29/11/2010, mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/năm. Do đó, nếu theo quy định tại Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 thì chỉ có thể áp dụng mức lãi suất cao nhất đối với khoản tiền bạn vay là: 9%/năm x 150% = 13,5%/năm.

Trong trường hợp của bạn, bạn chồng vay tiền của người khác 220 triệu đồng, với mức lãi suất 30 triệu/ tháng, tức là 13,6%/tháng, do đó lãi suất 1 năm là 13,6 (%) x 12 (tháng) = 163,2 %/ năm. Việc thỏa thuận mức lãi suất 163,2%/năm đã vượt quá 13,5%/năm nên trước hết là vi phạm pháp luật dân sự về việc áp dụng lãi suất cho vay theo quy định tại Điều 476 Bộ luật Dân sự nói trên. Khi có tranh chấp xảy ra, pháp luật không thừa nhận và bảo vệ quyền lợi của bên cho vay đối với phần lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Hiện tại, nếu bạn và người cho bạn vay không thống nhất với nhau được về mức lãi suất, bạn có thể khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.

Thứ hai: Về Tội cho vay nặng lãi

Bên cạnh đó, theo pháp luật hình sự, cụ thể tại khoản 1 Điều 163 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Tội cho vay nặng lãi được quy định như sau:"1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 10 lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến 10 lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm".

Theo quy định của điều luật trên, việc cho vay nặng lãi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau đây:

- Lãi suất cho vay cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 10 lần trở lên. Mức lãi suất 163.2%/năm chồng bạn phải thỏa thuận khi vay đã cao hơn 12.8 lần so với mức lãi suất cao nhất được pháp luật cho phép là 13,5%/năm.

- Có tính chất chuyên bóc lột, tính chất này được hiểu là người phạm tội lợi dụng việc cho vay, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn, quẫn bách của người đi vay để cho vay với lãi suất cao nhằm thu lợi bất chính mà thực chất là bóc lột người đi vay. Tính chất chuyên bóc lột của hành vi cho vay lãi nặng có thể được thể hiện ở chỗ: người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nhiều lần, hành vi mang tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay lãi nặng làm một nghề kiếm sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

Ở dấu hiệu thứ hai, dấu hiệu này được thỏa mãn nếu chứng minh được rằng người cho bạn vay tiền thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nhiều lần, hành vi này mang tính chuyên nghiệp, người cho bạn vay tiền lấy việc cho vay lãi nặng làm một nghề kiếm sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

Như vậy, thông tin bạn cung cấp trong trường hợp này chưa đủ để kết luận người cho vay có phạm tội vay nặng lãi hay không. 

Thứ ba: Mục đích vay để chơi cờ bạc.

Điểm b khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 quy định:

“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây  chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

Có thể nhận thấy hành vi trên của chồng bạn có sử dụng tài sản vào mục đích đích bất hợp pháp (đánh bạc) tuy nhiên chồng bạn chưa có mục đích và hành vi chiếm đoạt tài sản nên vẫn là quan hệ vay mượn dân sự .

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ) 

Ban Bạn đọc