30 năm trước, tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt Nam vào khoảng 233/100.000 trẻ đẻ sống, cao gấp 4 lần thời điểm hiện tại. Tử vong mẹ tại các vùng sâu, vùng xa thậm chí còn cao hơn rất nhiều. Đặc biệt, tỷ lệ đẻ tại nhà không có cán bộ y tế đỡ đẻ trong giai đoạn này còn rất cao ở khu vực miền núi, dao động trong khoảng 50-58%.
Việc không khám thai, đẻ tại nhà không được hỗ trợ của cán bộ y tế là nguyên nhân quan trọng khiến tình trạng tử vong mẹ còn cao ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em và thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền về sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Ngoài ra, nghèo đói, giao thông khó khăn, thiếu thông tin liên lạc, tiếp cận dịch vụ y tế còn hạn chế ở những vùng xa xôi, hẻo lánh… là những yếu tố cản trở đồng bào dân tộc sinh con tại cơ sở y tế. Đặc biệt, sự khác biệt về yếu tố văn hóa như ngôn ngữ, phong tục tập quán có liên quan đến việc mang thai, sinh con… cũng làm giảm khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người dân ở vùng núi cao.
Bên cạnh đó, nhân lực y tế, trong đó đặc biệt là nhân lực làm công tác chăm sóc thai sản và sơ sinh ở vùng miền núi luôn thiếu trầm trọng. Cán bộ y tế xã rất khó để thực hiện những dịch vụ làm mẹ an toàn, chăm sóc trẻ sơ sinh tại các thôn bản vùng núi cao và xa xôi hẻo lánh do điều kiện đi lại khó khăn, thiếu kinh phí, trang thiết bị.
Thông tin hoạt động mạng lưới cô đỡ thôn bản cho thấy hiện nay có 3726 xã thì số xã có đẻ tại nhà là 1386 (chiếm 37,2%). Cả nước có 12.939 thôn bản vùng địa bàn khó khăn thì Thừa Thiên Huế là tỉnh ít nhất với 27 thôn bản, Sơn La nhiều nhất với 1708 thôn bản. Số thôn bản cần có cô đỡ thôn bản là 7.221 nhưng hiện mới chỉ có 2.632 xã có cô đỡ thôn bản. Vẫn còn 4.639 xã chưa có đội ngũ này.
Trên cả nước, tổng số cô đỡ thôn bản được đào tạo trên 6 tháng là 2.632 nhưng chỉ có 1.702 cô đỡ thôn ban được đào tạo đang hoạt động (chiếm 64,7%) trong đó ít nhất là Phú Yên (3 người) và nhiều nhất là Điện Biên (203 người).
Tuy nhiên việc duy trì hoạt động của cô đỡ thôn, bản còn nhiều khó khăn. Tính đến nay, hơn 1.500 cô đỡ thôn bản đã được đào tạo nhưng đã ngừng hoạt động và chỉ có 911 trong số các cô đỡ đang làm việc và được nhận phụ cấp hàng tháng. Một vài lý do có thể kể đến như, không được hưởng chế độ trợ cấp thường xuyên, không được gia đình ủng hộ, không được đảm bảo đầy đủ trang bị đầy đủ thiết bị, vật tư y tế để thực hiện công việc.
Phát biểu khai mạc hội nghị vận động chính sách hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn bản hôm 10/3, GS.TS. Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ của các Bộ/ngành, của cấp ủy và chính quyền các cấp cũng như của các tổ chức quốc tế, sự nỗ lực của ngành Y tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ về chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.
Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các Mục tiêu về chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em của Liên Hợp hợp quốc. Bên cạnh những thành tựu, Việt Nam vẫn đang gặp những khó khăn, thách thức, đặc biệt là sự khác biệt đáng kể về tình trạng sức khỏe bà mẹ, trẻ em giữa các vùng miền, các nhóm dân tộc. Ở miền núi, tử vong mẹ, tử vong trẻ em vẫn cao gấp 3-4 lần so với khu vực đồng bằng và đặc biệt, ở một số đồng bào dân tộc thiểu số có thể cao gấp 7 lần ở người Kinh.
Nhận thức được những khó khăn trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em (SKBMTE) ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Bộ Y tế đã có chủ trương đào tạo các cô đỡ thôn, bản người dân tộc thiểu số cho các vùng khó khăn.
“Đây là một giải pháp tạm thời nhưng rất hiệu quả trong giai đoạn hiện nay nhằm gỡ bỏ những rào cản về địa lý, văn hóa và tài chính giúp cho phụ nữ người dân tộc thiểu số có thể tiếp cận được tới các dịch vụ khám thai, đỡ đẻ an toàn và chăm sóc sau sinh” - Thứ trưởng nói.
Đến hiện tại đã có 1.549 cô đỡ thôn, bản được đào tạo hiện đang hoạt động trong tổng số 5.111 thôn bản đặc biệt khó khăn (chiếm 30,31%). Với kiến thức, kỹ năng được đào tạo và thực hành tại các bệnh viện, cô đỡ thôn, bản có thể chăm sóc bà mẹ khi có thai và sinh con, đỡ đẻ an toàn, phát hiện các tai biến ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực hiện các kỹ năng cứu sống cơ bản và chuyển tuyến kịp thời.
Với sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế, đến nay toàn quốc đã có 3.077 cô đỡ thôn, bản được đào tạo. Vai trò của cô đỡ thôn bản đã được ngành Y tế cũng như cộng đồng địa phương ghi nhận. Đội ngũ cô đỡ thôn, bản chính là cánh tay nối dài không thể thiếu của trạm y tế xã ở các vùng khó khăn, đặc biệt là trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em.