Đã trải qua 40 năm Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) chính thức được ký kết. PGS, TS. Nguyễn Thị Lan Anh, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao trong bài nghiên cứu đã nhấn mạnh, Việt Nam - thành viên có trách nhiệmcủa UNCLOS năm 1982:

Ngay sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã tích cực tham gia Hội nghị Luật Biển lần thứ ba của Liên hợp quốc; đồng thời, ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa vào ngày 12-5-1977. Mặc dù được công bố từ năm 1977, nhưng nội dung của Tuyên bố này hoàn toàn phù hợp với các quy định của UNCLOS được các quốc gia ký kết vào năm 1982.

Năm 1994, Việt Nam là quốc gia thứ 63 phê chuẩn UNCLOS năm 1982, trước khi Công ước chính thức có hiệu lực vào tháng 12-1994. Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn UNCLOS năm 1982 đã khẳng định rõ, bằng việc phê chuẩn UNCLOS năm 1982, Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển.

Sau khi trở thành thành viên chính thức của UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong nước để cụ thể hóa các quy định của Công ước trong nhiều lĩnh vực.

Sau khi trở thành thành viên chính thức của UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong nước để cụ thể hóa các quy định của Công ước trong nhiều lĩnh vực, như biên giới lãnh thổ, hàng hải, thủy sản, dầu khí, bảo vệ môi trường biển và hải đảo... Đặc biệt, năm 2012, Việt Nam đã ban hành Luật Biển Việt Nam với hầu hết các nội dung tương thích với UNCLOS năm 1982.

Thực hiện nghĩa vụ quy định tại UNCLOS năm 1982, năm 2009, sau 15 năm trở thành thành viên của Công ước, Việt Nam đã đệ trình ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng khu vực phía Bắc lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng hợp tác cùng Ma-lai-xi-a đệ trình lên CLCS ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng chung tại phía Nam Biển Đông, nơi hai nước có thềm lục địa chồng lấn, chưa phân định.

Với tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã phân định các vùng biển chồng lấn thành công với nhiều nước láng giềng. Song song với phân định biển, Việt Nam và Trung Quốc cũng đạt được thỏa thuận về hợp tác nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ, qua đó xác lập khu vực hợp tác đánh bắt cá chung và tuần tra chung để ngăn ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm trên biển.

Cho tới nay, các hiệp định phân định biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng được thực hiện đúng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982, góp phần thúc đẩy quan hệ hòa bình, ổn định và phát triển giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng. Bên cạnh phân định biển, Việt Nam cũng đã đạt được thỏa thuận với Cam-pu-chia về vùng nước lịch sử tại khu vực biển chưa phân định giữa hai nước. Đồng thời, cùng với Ma-lai-xi-a, thiết lập khu vực khai thác dầu khí chung tại khu vực thềm lục địa chồng lấn chưa được phân định giữa hai nước.

Tại các khu vực biển còn chống lấn, chưa được phân định, với các nước láng giềng như khu vực chồng lấn với Cam-pu-chia, khu vực chồng lấn ba bên giữa Việt Nam, Ma-lai-xi-a và Thái Lan, hoặc khu vực có khả năng chồng lấn giữa Việt Nam và Bru-nây, cũng như giữa Việt Nam và Phi-líp-pin, Việt Nam luôn tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trong khi thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, Việt Nam ủng hộ việc duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

Đặc biệt với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một mặt, Việt Nam khẳng định có đầy đủ các bằng chứng lịch sử và pháp lý để minh chứng cho chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo này; mặt khác, Việt Nam xác định cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của UNCLOS năm 1982. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã tham gia ký kết và thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đồng thời đang tích cực cùng Trung Quốc và các quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Ngày 22-10-2018, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã được ban hành. Chiến lược xác định rõ “Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Bên cạnh các mục tiêu phát triển kinh tế biển xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, giữ gìn, phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa biển, kết hợp với tiếp thu khoa học - công nghệ, tiên tiến, hiện đại, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, Chiến lược xác định tầm nhìn tới năm 2045 là Việt Nam sẽ tham gia chủ động, có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực về biển và đại dương.

Thực hiện tinh thần này, năm 2021, Việt Nam đã cùng 11 nước sáng lập Nhóm bạn bè của UNCLOS năm 1982 nhằm tạo ra một diễn đàn cởi mở, thân thiện để các nước cùng trao đổi các vấn đề về biển và đại dương, qua đó đóng góp chung vào việc thực hiện đầy đủ UNCLOS. Hiện nay, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn đa phương, thảo luận về các vấn đề mới nổi lên của biển và đại dương như bảo tồn đa dạng sinh học tại vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, ứng phó với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu với biển và đại dương, quản trị các hoạt động trên biển trong điều kiện có các thách thức an ninh phi truyền thống mới, như đại dịch COVID-19, nạn buôn bán người, di cư trái phép...

Thường được coi là một bản “Hiến pháp về đại dương”, việc ký kết UNCLOS cách đây 40 năm là một dấu mốc lịch sử trong quá trình phát triển của luật quốc tế, tạo ra một khung pháp lý toàn diện giúp quản trị biển hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia và sự phát triển bền vững biển và đại dương.

Liên hợp quốc - tổ chức đa phương quy tụ nhiều thành viên nhất trên thế giới hiện nay - đã nhiều lần công nhận vai trò của UNCLOS năm 1982 và nhấn mạnh cần tuân thủ Công ước trong mọi hoạt động trên biển và đại dương. ASEAN trong các tuyên bố cấp cao của mình cũng luôn nhấn mạnh giá trị phổ quát, tầm quan trọng của việc thực thi UNCLOS năm 1982 để duy trì hòa bình, ổn định và quản lý, giải quyết hòa bình các tranh chấp biển trong khu vực.

Là một quốc gia ven biển, một thành viên tích cực và có trách nhiệm, Việt Nam luôn khẳng định UNCLOS năm 1982 là một trong những quy định của luật pháp quốc tế đóng vai trò then chốt trong việc quản lý, phát triển kinh tế biển quốc gia; đồng thời, là cơ sở để Việt Nam giải quyết hòa bình các tranh chấp biển với các quốc gia láng giềng, hướng tới việc quản trị Biển Đông hòa bình, bền vững.

Thúy Hồng (tóm lược), Minh Hưng, Anh Dũng