- Tôi cho một người tên A vay số tiền 800 triệu đồng, nhưng thay vì viết giấy vay nợ, A làm thủ tục bán cho tôi căn nhà đứng tên con trai A với giá ghi trên hợp đồng là 500 triệu. Hợp đồng mua bán của chúng tôi có đầy đủ chữ kí cả hai bên và được công chứng tại văn phòng công chứng nơi có căn nhà.

Nhưng ngay sau khi nhận tiền, anh A lại đưa giấy tờ nhà đất cho con trai mình cầm. Đến lúc tôi hỏi, anh A nói giấy tờ nhà của con trai, do con anh đứng tên nên giờ muốn đòi cũng khó, tức anh A có ý định không trả tiền vay cho tôi.

Mặc dù tôi đã đòi và dọa đưa giấy tờ đã công chứng đi kiện nhưng anh A vẫn chây ì. Xin hỏi luật sư, nếu giấy tờ nhà đứng tên con trai anh A thì việc anh ta bán cho tôi có hợp pháp không? Nếu không thì việc văn phòng công chứng đã công chứng là sai hay đúng? Tôi muốn kiện để lấy lại tiền của mình thì phải làm thế nào?

{keywords}
Vay được tiền, anh ta liền tìm cách "xù nợ" (Ảnh minh họa)

Theo thông tin bạn cung cấp, chúng tôi nhận định rằng: việc bạn và anh A thiết lập giao dịch về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong trường hợp này là nhằm che giấu một giao dịch có thật là vay tiền. Do đó, giao dịch về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có thể bị vô hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật dân sự, cụ thể:

“Điều 129. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.

Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”.

Đồng thời, theo như quy định tại Điều 137 Bộ Luật dân sự thì “giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên kể từ thời điểm xác lập; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả lại bằng tiền.”

Mặt khác, nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên con trai anh A và anh A không được con trai ủy quyền cho phép chuyển nhượng, mua bán… thì hành vi của A có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự.

Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, trong trường hợp này, bạn cần xác minh tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và UBND xã phương nơi có thửa đất để làm rõ A có phải là chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất nêu trên hay không. Tùy theo kết quả xác minh thu được, bạn có thể làm đơn trình báo vụ việc tới Cơ quan Công An hoặc Tòa Án Nhân Dân Có thẩm quyền để giải quyết.

Tư vấn bởi luật sư Hoàng Tuấn Anh. Công ty Luật Themis; Mail: luatthemis@gmail.com; DĐ: 0986663459

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)

Ban Bạn đọc