
Bộ Công thương vừa đưa ra dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định 84/2009/NĐ-CP ngày 15.10.2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu. Về cơ bản, dự thảo nghị định này, ở những điều khoản khác, không có nhiều thay đổi so với nghị định 84/NĐ-CP ban hành cách đây 3 năm nhưng có những thay đổi đáng chú ý khi đưa ra tới 3 phương án (trong điều 27 của dự thảo nghị định) về điều hành giá xăng dầu tính theo biến động giá thực tế hoặc theo giá bình quân 30 ngày hoặc theo mức trần biến động cho cả năm.
Theo phương án 1, dự thảo nghị định này chỉ thay đổi về thời gian và mức điều chỉnh so với Nghị định 84/CP. Thời gian tăng, giảm giá giá xăng được nâng lên thành 15 ngày (quy định hiện hành là 10 ngày). Nếu các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá cơ sở giảm dưới hoặc bằng 6% so với giá bán lẻ hiện hành thì doanh nghiệp (DN) phải giảm giá tương ứng (thay vì 12% như Nghị định 84). Trường hợp biến động làm cho giá cơ sở giảm trên 6%, cơ quan có thẩm quyền sẽ tăng thuế nhập khẩu, tăng quỹ bình ổn giá..., DN vẫn tiếp tục giảm giá bán lẻ.
![]() |
Trường hợp có biến động làm cho giá cơ sở tăng dưới hoặc bằng 5%, DN được quyền tăng giá bán lẻ tương ứng. Nếu biến động làm giá cơ sở tăng 5%-10% thì DN được tăng giá tương ứng với phần tăng 5%, cộng thêm 60% phần tăng giá còn lại và 40% sử dụng quỹ bình ổn giá để bù đắp. Trường hợp có biến động làm giá cơ sở tăng trên 10% hoặc việc tăng giá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân thì Nhà nước bình ổn giá thông qua điều hành thuế, quỹ bình ổn giá... Nghị định 84 quy định mức biến động đến 7% mới tăng giá.
Còn theo phương án 2, dự thảo nghị định mới quy định: việc tăng/giảm giá xăng dầu dựa trên giá cơ sở bình quân 30 ngày, tính theo giá giao dịch tại sàn Singapore hoặc giá công bố tại sàn giao dịch khác. Ngày làm việc đầu tiên của tháng tiếp theo, liên bộ Tài chính - Công Thương công bố giá trần bán lẻ áp dụng trong tháng. DN có quyền tăng, giảm giá nhưng không vượt quá giá trần. Nếu giá cơ sở vượt quá giá bán lẻ hiện hành từ 5% trở lên, sau khi điều chỉnh tăng đến 5%, phần còn lại liên bộ quyết định sử dụng biện pháp bình ổn. Nếu giá cơ sở thấp hơn giá bán lẻ hiện hành từ 5% trở lên, sau khi điều chỉnh giảm đến 5%, phần còn lại liên bộ quyết định trích lập quỹ bình ổn giá hoặc tăng thuế nhập khẩu.
Đáng chú ý nhất, theo phương án 3-phương án mà nhiều thành viên trong ban soạn thảo của bộ Công thương tự cho là hợp lý nhất quy định: mức trần giá bán lẻ xăng dầu cho cả năm sẽ được công bố tại ngày làm việc đầu tiên của năm. Theo đó, DN quyết định giá bán, thời điểm điều chỉnh giá tùy thuộc vào phương án kinh doanh của từng doanh nghiệp, theo diễn biến giá xăng dầu thế giới. Định kỳ hằng quý, cơ quan quản lý tính toán chênh lệch giữa giá cơ sở với giá bán lẻ quy định, nếu giá cơ sở vượt mức trần giá bán lẻ thì cơ quan quản lý cho phép sử dụng quỹ bình ổn giá để bù đắp chênh lệch, căn cứ vào hóa đơn bán hàng của doanh nghiệp. Mức trần giá bán lẻ xăng dầu cả năm tính bằng giá cơ sở (loại bỏ lợi nhuận định mức) trung bình năm trước cộng với mức trần tăng giá. Mức giá trần tăng giá tính bằng giá cơ sở (loại bỏ lợi nhuận định mức) trung bình năm trước nhân với CPI dự kiến trong năm của Chính phủ.
Các phương án 1 và 2 - là 2 phương án cơ bản không khác nhiều so với quy định hiện hành, chỉ thay đổi một chút cho phù hợp - nhiều khả năng khi áp dụng sẽ không làm thay đổi nhiều cung cách điều hành giá xăng dầu trước đây. Cũng có điều đáng lưu ý là nếu như thời gian điều chỉnh giảm giá xăng nâng lên thành 15 ngày thay vì 10 ngày thì nó có thể lại dẫn tới tình trạng trì trệ, chậm giảm giá xăng của doanh nghiệp trong khi trên thực tế, giá thế giới liên tục giảm vào một thời điểm nào nào đó thì việc kéo dài thời gian điều chỉnh này cũng không phải là một thay đổi tích cực.
Nhưng với phương án 3, mặc dù có ý kiến từ bộ Công thương cho rằng, nó sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động tăng, giảm giá, khuyến khích sự cạnh tranh và ít có sự can thiệp của nhà nước hơn. Nhưng nếu cân nhắc về nhiều mặt, phương án này lại chứa đứng nhiều yếu tố bất hợp lý, có thể khiến việc điều hành lại trở về với sự thiếu linh hoạt, trở lại với cơ chế xin cho trong khi, có thể tạo ra những tự tung, tự tác của doanh nghiệp độc quyền.
Ở đây, đặt ra một câu hỏi: tại sao lại phải chọn một giá trần mà lại áp cho cả năm mà không phải hàng tháng, hàng tuần trong khi đây là một mặt hàng liên tục có sự biến động thậm chí có lúc biến động tăng, giảm rất nhanh, mạnh trên thị trường thế giới -có thể làm cho mức giá trần đó nhanh chóng lạc hậu? Nhất là khi, theo như các tác giả của bản dự thảo nghị định, giá trần đó lại dựa vào tính toán CPI của năm sau, tham khảo giá quá khứ của năm trước.
Nếu như giá trần xác định không chính xác, ở mức quá cao thì doanh nghiệp đầu mối xăng dầu rất có khả năng căn cứ vào đó, tăng giá vô tội vạ khiến người tiêu dùng bị thiệt hại. Còn nếu giá trần thấp, lại tạo ra một cơ chế xin cho. Doanh nghiệp thua lỗ khi giá trần thấp lại phải xin nâng trần-tạo cơ chế xin cho. Do đó, có thể thấy, phương án này tính khả thi, tính hợp lý không phải là cao. Ban soạn thảo cũng chưa đưa ra được căn cứ nào cho thấy có những nước nào trên thế giới đã thực hiện hiệu quả. Những cơ chế điều hành giá cả dựa vào trần giá nói chung rất hãn hữu được sử dụng ở các nước có nền kinh tế thị trường, trong hoàn cảnh bình thường, nhất là giá xăng dầu. Nó thường áp dụng trong những hoàn cảnh đặc biệt như chiến tranh, ở các nước có nền kinh tế bao cấp trước đây.
Không phủ nhận rằng, việc thực hiện nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu hiện hành không có những hiệu quả nhất định: thị trường bắt đầu có tín hiệu cạnh tranh hơn: Petrolimex chỉ còn chiếm thị phần 50% (không còn là 70-80% như trước), PV tăng thị phần lên 15-18%; Nhà nước đã chấm dứt tình trạng bù lỗ: năm 2008 vẫn bù lỗ tới 33 ngàn tỷ đồng nhưng 3 năm nay, áp dụng nghị định 84/CP đã chấm dứt bù lỗ ...Tuy nhiên, với thực tế tình hình lộn xộn trên thị trường xăng dầu mấy năm qua: thường xuyên có sự lệch pha với thị trường thế giới: khi giá thế giới tăng thì Việt Nam giảm, khi xăng dầu thế giới giảm thì giá xăng dầu ở Việt Nam lại tăng; việc điều hành quỹ bình ổn giá xăng dầu luôn có vấn đề: luôn rơi vào tình trạng thâm hụt, âm quỹ; đa số doanh nghiệp đầu mối vẫn là doanh nghiệp nhà nước, ít sự cạnh tranh...cho thấy, cơ chế điều hành thị trường xăng dầu, giá xăng dầu cần phải thay đổi. Nhưng nếu thay đổi như dự thảo nghị định này, sẽ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra.
Cụ thể, theo dự thảo mới của Bộ Công thương đối với việc sửa đổi NĐ 84, quan điểm trao quyền định giá cho DN vẫn được giữ nguyên, nhưng thay vì 3 mức điều chỉnh 7%, 12% và trên 12% như quy định hiện hành, Bộ Công thương đề xuất chia nhỏ hơn với mức 3%, 5% và 7%. Ngoài ra, biên độ điều chỉnh còn dựa trên sự chênh lệch giữa giá cơ sở và giá hiện hành từ 500 đồng/lít - 1.000 đồng/lít. Theo các chuyên gia, cái "kỳ quặc" nhất của dự thảo sửa đổi chính là vẫn đề xuất để doanh nghiệp hoàn toàn tự quyết định giá nếu xăng tăng dưới 1.000 đồng/lít. Bởi điều này cũng có nghĩa, các DN kinh doanh xăng dầu vẫn hoàn toàn được tự điều chỉnh giá như thời gian qua vẫn diễn ra, hầu như không có gì thay đổi. Ngoài ra, nhận định về biên độ điều chỉnh giá, các chuyên gia cho rằng, dù chia nhỏ biên độ định giá như trên, nhưng nếu vẫn còn sự độc quyền (Petrolimex vẫn chiếm gần 50% thị phần), DN xăng dầu sẽ lợi dụng sự độc quyền để đẩy giá nhiều lần khi có biến động.
Trung Ngôn
