TS. Nguyễn Minh Vũ, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia
Ngày 28-9-2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, trong đó xác định mục tiêu chung là: Xây dựng biên giới quốc gia hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển; bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới và cả nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng định hướng công tác quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng liên quan về vấn đề này trong tình hình mới, cụ thể là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch... xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia... Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”.
Đối với Tây Nguyên, ngay từ năm 2002, Bộ Chính trị khóa IX ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 - 2010 và ra Kết luận số 12-KL/TW, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011 - 2020.
Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 276/QĐ-TTg, ngày 18-2-2014, về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW, trong đó đề ra các mục tiêu phát triển cụ thể đối với vùng Tây Nguyên trên các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, môi trường và quốc phòng - an ninh.
Trong nhiệm kỳ 2021 - 2026, phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng Tây Nguyên được đề ra trong tổng thể Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng đường bộ cao tốc và nâng cấp mạng lưới giao thông nội vùng, các tuyến kết nối các tỉnh Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, ven biển Nam Trung Bộ, với Nam Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trong mọi tình huống”.
Và, để tiếp tục xây dựng Tây Nguyên trở thành địa bàn xứng tầm chiến lược quốc phòng - an ninh, vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, ngày 14-4-2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 461/QĐ-TTg, phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, theo đó giao cho các bộ, ngành chủ trì báo cáo về thực trạng và phương hướng phát triển các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành mình.
Để xây dựng biên giới với các nước láng giềng trên địa bàn Tây Nguyên thành tuyến biên giới hữu nghị, hợp tác, phát triển, các địa phương có biên giới cần quán triệt các nguyên tắc và định hướng sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và cả nước. Trong tình hình hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về biên giới lãnh thổ cần kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, xây dựng, củng cố cơ sở chính trị, xã hội các huyện, xã biên giới vững mạnh; chú trọng nâng cao nhận thức, bồi dưỡng năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, qua đó tăng cường, nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức đảng, quản lý nhà nước về biên giới lãnh thổ.
Từ đặc điểm dân cư tại Tây Nguyên, vấn đề tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nhiệm vụ càng phải được chú trọng, làm cơ sở cho xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Việc cấp bách trước mắt là ổn định việc định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên, hạn chế tình trạng di cư tự do, thông qua giao đất, giao rừng cho từng hộ gia đình, từng bản làng, kết hợp bảo vệ rừng với bảo vệ đường biên, cột mốc dưới sự hướng dẫn của cơ quan, lực lượng chuyên trách địa phương. Song song với đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức trách nhiệm, nâng cao dân trí cho nhân dân, nhất là đối tượng già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng, đồng bào các dân tộc sinh sống tại khu vực biên giới về bảo vệ biên giới và phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới, tránh bị lợi dụng, lôi kéo bởi các thế lực thù địch, phản động.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại(5). Tây Nguyên là một trong bảy vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, đồng thời là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng - an ninh, trung tâm của khu vực “Tam giác phát triển”. Do đó, xây dựng tuyến biên giới hữu nghị, hợp tác, phát triển với các nước bạn Lào, Cam-pu-chia trên địa bàn Tây Nguyên đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa yếu tố quốc phòng - an ninh với yếu tố kinh tế - xã hội. Điều này góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp, vừa bảo đảm giữ vững được chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, vừa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân tại khu vực hai bên biên giới.
Theo đó, chính quyền địa phương biên giới các cấp cần: xây dựng chính sách ưu tiên, ưu đãi về kinh tế - xã hội đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa biên giới; nghiên cứu, đầu tư xây dựng các công trình vừa phục vụ quản lý, bảo vệ biên giới, vừa phục vụ đời sống, sinh hoạt của cư dân biên giới; đầu tư kết cấu hạ tầng, trang thiết bị khu vực cửa khẩu; thực hiện quy hoạch cửa khẩu biên giới đất liền, quy hoạch kinh tế vùng biên giới cho từng tỉnh, từng tiểu vùng (cả về nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ theo ba cấp độ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn).
Thứ ba, củng cố các cơ chế chỉ đạo triển khai công tác biên giới và tăng cường xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ biên giới.
Thực hiện hướng dẫn của Bộ Ngoại giao, 4 tỉnh biên giới Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông đã thành lập Ban Chỉ đạo công tác biên giới tỉnh để chỉ đạo, điều hành, bảo đảm quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia, cũng như các biên bản, thỏa thuận trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác song phương về biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Cam-pu-chia.
Trong tình hình mới, đối với các lực lượng chuyên trách trên thực địa, tiếp tục củng cố, xây dựng theo hướng toàn diện, chính quy, tinh nhuệ, ngày càng hiện đại cả về tổ chức và trang thiết bị, nắm vững hệ thống văn bản pháp lý song phương và pháp luật trong nước nhằm bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý đường biên, mốc giới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, ngăn ngừa các nguy cơ xung đột từ sớm, từ xa.
Thứ tư, tiếp tục phát huy vai trò của người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Già làng, trưởng bản, người có uy tín luôn đóng vai trò như cầu nối giữa chính quyền cơ sở và đồng bào dân tộc thiểu số, giúp đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi sâu vào đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân tộc thiểu số, qua đó góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Năm 2022, toàn vùng Tây Nguyên có 3.433 già làng, người có uy tín, trong đó, tỉnh Kon Tum 678 người, Gia Lai 955 người, Đắk Lắk 1.021 người, Đắk Nông 300 người và Lâm Đồng 479 người(6). Trước yêu cầu mới, không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trước mắt, đổi mới chính sách, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, ưu tiên cán bộ là người dân tộc thiểu số, người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ năm, tăng cường hoạt động đối ngoại để củng cố, phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước bạn Lào, Cam-pu-chia.
Tăng cường hoạt động đối ngoại với các nước có chung biên giới có ý nghĩa củng cố, phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị, thực hiện chính sách mở cửa, mở rộng hợp tác địa phương, giao lưu, hợp tác thương mại biên giới, từ đó phát triển kinh tế vùng biên trên mọi lĩnh vực.
Trên cơ sở các nội dung công tác biên giới giữa Việt Nam và nước bạn Lào, Cam-pu-chia,
Ban Chỉ đạo công tác biên giới các tỉnh, các cấp chính quyền địa phương và lực lượng chuyên trách bảo vệ biên giới tại Tây Nguyên cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với nước bạn trong trao đổi thông tin; tăng cường tuần tra song phương, nhằm bảo đảm sự ổn định của đường biên giới, hệ thống mốc biên giới và an ninh, trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới; giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trên tinh thần hữu nghị, không để tình hình an ninh - chính trị trở nên phức tạp; đẩy mạnh hợp tác, giao lưu kinh tế, văn hóa với địa phương đối diện phía Lào và Cam-pu-chia.
Thuý Nga (lược trích), Hoàng Hà, Ngọc Dũng