Chiến trường Quảng Trị năm 1972 với những hình ảnh anh dũng và sự hy sinh quả cảm của các chiến sĩ bộ đội Cụ Hồ, đặc biệt là của người chỉ huy trung đoàn tình nguyện ở lại chặn hậu để bộ đội rút lui, đã được khắc họa vô cùng sống động và rõ nét qua bộ phim Mưa đỏ.

Thế nhưng, ở Thủ đô Hà Nội, trong những ngày tháng ấy cũng có những sự hy sinh thầm lặng ít người biết tới của những vị tướng, người chỉ huy tối cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam, để hình thành nên giai thoại “Cuốc xẻng từ trên phát xuống” ở Tổng hành dinh của Bộ đội Cụ Hồ…

“Để tôi đi, vì tôi là ủy viên Trung ương Đảng…”

Giữa năm 1972, không khí Hà Nội căng như dây đàn. Những bức điện mật từ mặt trận B5 liên tục gửi về Tổng hành dinh, phác họa một bức tranh chiến trường Trị - Thiên, trong đó có mặt trận Quảng Trị ác liệt. Đó là nơi ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như sợi tóc, nơi mỗi mét đất của thị xã Quảng Trị đều thấm đẫm máu xương người lính. Cuộc chiến lúc này không còn đơn thuần là sự đọ sức về hỏa lực mà đã trở thành cuộc đấu trí, đấu lực cam go về ý chí và sức chịu đựng của con người.

Hình 1. Đồng chí Song Hào tại Hội nghị Trung Giã năm 1954 ảnh LIFE.jpg
Đồng chí Song Hào tại hội nghị Trung Giã năm 1954

Trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, tại văn phòng Tổng cục Chính trị (TCCT), một cuộc đối thoại đã diễn ra và sau này đi vào lịch sử quân đội.

Thiếu tướng Phạm Ngọc Mậu (Phó chủ nhiệm TCCT, một vị tướng dạn dày trận mạc) lòng như lửa đốt, đã trực tiếp gặp Trung tướng Song Hào (Chủ nhiệm TCCT) để báo cáo và tình nguyện đề nghị được vào mặt trận Trị - Thiên để thay thế cho Chính ủy mặt trận là Thiếu tướng Lê Quang Đạo. Thiếu tướng Lê Quang Đạo đã bám trụ mặt trận suốt từ những ngày đầu chiến dịch và đang bị mệt.

Đó là lời đề nghị xuất phát từ lẽ tự nhiên của người lính Cụ Hồ, từ trách nhiệm sẻ chia gian khó, hy sinh với đồng đội. Nhưng câu trả lời của Trung tướng Song Hào đã khiến cấp dưới của ông phải sững sờ. Ông nhìn thẳng vào Thiếu tướng Phạm Ngọc Mậu và dứt khoát: "Anh không được đi, để tôi đi, vì tôi là ủy viên Trung ương Đảng...".

Hình 2. Bác Hồ, đồng chí Song Hào bên phải năm 1954 tại Đền Hùng trước thời điểm về tiếp quản thủ đô Hà Nội 10.10.1954.jpg
Bác Hồ, đồng chí Song Hào (bên phải) năm 1954 tại Đền Hùng trước thời điểm về tiếp quản Thủ đô 10/10/1954

Dân gian thường có câu ngạn ngữ vui về sự bất công trong cuộc sống, đó là "Cuốc xẻng phát từ dưới phát lên, còn đường sữa phát từ trên phát xuống", hàm ý gian khổ đẩy cho cấp dưới, quyền lợi dành cho cấp trên của mình. Nhưng tại cơ quan đầu não của cơ quan lãnh đạo công tác Đảng, công tác chính trị toàn quân, hành động của Trung tướng Song Hào đã đảo ngược hoàn toàn tư duy đó. Ông đã "phát cuốc xẻng từ trên xuống" - giành lấy phần việc gian khổ, nguy hiểm về mình dù đồng đội đã tình nguyện xung phong.

Hình 3. Đc Song Hào Chính ủy chiến dịch Trị   Thiên năm 1972   Thứ 2, hàng ngồi, từ phải sang trái (1).jpg
Trung tướng Song Hào, Chính ủy chiến dịch Trị - Thiên năm 1972 (người thứ 2 hàng ngồi, từ phải sang trái)

Quyết định mang tầm vóc chiến lược này quả thật đã triển khai một thứ vũ khí mạnh hơn bom đạn vào chiến trường. Đó là uy tín của người lãnh đạo cao nhất.

Khi mặt trận gian khổ cần một điểm tựa tinh thần tột cùng, việc một ủy viên Trung ương Đảng đích thân ra trận là lời cam kết bằng sinh mệnh rằng: Đảng, Quân ủy Trung ương và Tổng hành dinh đang kề vai sát cánh cùng người lính trong từng chiến hào.

Chân dung vị "Tướng rau muống"

Để thấu hiểu sức nặng trong quyết định của Tướng Song Hào, cần nhìn lại hành trình tôi luyện trong lò lửa cách mạng của ông.

Sinh năm 1917 tại vùng quê nghèo Vụ Bản, Nam Định (cũ), Nguyễn Văn Khương (tên khai sinh của ông) lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, thấu hiểu tận cùng nỗi lầm than của người dân. Chính xuất thân bần nông ấy đã tạo nên sợi dây kết nối vô hình nhưng bền chặt giữa ông và những người lính - những người con của ruộng đồng.

Sự nghiệp của ông gắn liền với công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội. Ông trưởng thành từ Chính trị viên Đội Cứu quốc quân, Chính ủy Khu 10, Chính ủy Đại đoàn 308 "Quân Tiên phong" lừng lẫy đến đỉnh cao là 15 năm giữ cương vị Chủ nhiệm TCCT suốt trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ ác liệt. Ông được coi là một trong những “kiến trúc sư trưởng” xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.

Hình 4. Đc Song Hào đi đầu trên đường hành quân ra mặt trận Quảng Trị năm 1972.jpg
Tướng Song Hào đi đầu trên đường hành quân ra mặt trận Quảng Trị năm 1972

Nhưng trên hết, phẩm chất của ông đọng lại sâu sắc qua biệt danh bình dị mà Bác Hồ trìu mến đặt cho: "Tướng rau muống".

"Tướng rau muống" không chỉ là một giai thoại đẹp, mà là "chìa khóa" của niềm tin. Khi người lính biết vị tướng của mình sống thanh bạch, lo cho lính từ bữa ăn giấc ngủ, họ sẽ sẵn sàng theo ông vào nơi sinh tử. Sự nghiệp Chính ủy lừng lẫy và uy tín đạo đức không gì lay chuyển đã chuẩn bị cho ông một tâm thế hoàn hảo để đối mặt với thử thách mang tên Quảng Trị.

"Mùa hè đỏ lửa" và bản lĩnh người Chính ủy

Chiến dịch Xuân - Hè 1972 khởi đầu bằng những thắng lợi vang dội, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị vào ngày 2/5/1972, tạo cú sốc địa chính trị lớn. Tuy nhiên, cục diện nhanh chóng đảo chiều khi đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở cuộc hành quân "Lam Sơn 72" hòng tái chiếm vùng đất này.

Đối phương đã biến Quảng Trị thành một "chảo lửa" đúng nghĩa với mức độ hủy diệt chưa từng có. B-52 rải thảm, pháo hạm và pháo mặt đất cày xới nát từng tấc đất. Tâm điểm là khu vực thị xã Quảng Trị trong suốt 81 ngày đêm bi tráng. Trong lò lửa ấy, khẩu hiệu "Còn người là còn chốt" trở thành mệnh lệnh trái tim, nhưng sự hy sinh là vô cùng to lớn.

Hình 5. Từ phải qua trái các đồng chí Song Hào, Văn Tiến Dũng, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Tấn tại mặt trận Quảng Trị năm 1972.jpg
Từ phải qua trái: các đồng chí Song Hào, Văn Tiến Dũng, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Tấn tại mặt trận Quảng Trị năm 1972

Sau cuộc trao đổi “cuốc xẻng từ trên phát xuống” ở Tổng hành dinh, Trung ương và Bộ Chính trị đã phân công Thiếu tướng Trần Quý Hai làm Tư lệnh, Trung tướng Song Hào đảm nhận vị trí Chính ủy, Bí thư Đảng ủy mặt trận - nắm giữ linh hồn của trận địa.

Sự xuất hiện của Chủ nhiệm TCCT tại mặt trận B5 vào cuối tháng 7/1972 mang lại luồng sinh khí mới. Sự hiện diện của ông xóa nhòa khoảng cách giữa hậu phương và tiền tuyến, biến những khẩu hiệu trừu tượng thành hình ảnh sống động của người Chính ủy không quản hiểm nguy. Ông là hiện thân cho các chỉ thị của Đảng và biến điều đó thành niềm tin sắt đá, "bắc cây cầu" nối ý chí từ Hà Nội đến trái tim từng chiến sĩ đang bám trụ giữa đống gạch vụn Thành cổ.

Vai trò của Chính ủy Song Hào đặc biệt rõ nét trong những thời khắc khó khăn gian khổ nhất: lãnh đạo tư tưởng để quân ta chủ động rút khỏi Thành cổ bảo toàn lực lượng (tháng 9/1972) mà không dao động; và sau đó chỉ đạo đánh bại cuộc lấn chiếm Cửa Việt ngay trước giờ Hiệp định Paris có hiệu lực (tháng 1/1973). Những thắng lợi này không chỉ mang ý nghĩa quân sự mà là đòn chính trị quyết định trên bàn đàm phán ngoại giao.

Từ Quảng Trị đến Paris: Giá trị của niềm tin

Sự kiên cường của bộ đội ta tại Quảng Trị đã làm rung chuyển dư luận thế giới và chứng minh cho đế quốc Mỹ thấy: họ có thể hủy diệt một thành phố nhưng không thể khuất phục ý chí của một dân tộc. Sự bế tắc tại Quảng Trị là đòn bẩy buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973. Quân đội ta hoàn thành nhiệm vụ chiến lược "đánh cho Mỹ cút".

Hình 6. Quân ủy Trung ương họp bàn phương án tác chiến năm 1975 từ phải qua trái Trung tướng Song Hào ngồi thứ 3.jpg
Quân ủy Trung ương họp bàn phương án tác chiến năm 1975. Trung tướng Song Hào là người ngồi thứ 3, từ phải qua trái.

Di sản mà Thượng tướng Song Hào cùng các tướng lĩnh và bao xương máu chiến sĩ để lại là bài học vô giá về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân, nơi ý chí con người chiến thắng sắt thép.

Quay lại câu chuyện "cuốc xẻng" năm 1972, hành động của Tướng Song Hào không phải là phút ngẫu hứng anh hùng. Đó là sự kết tinh của tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội nhân dân Việt Nam: người chỉ huy phải là người nêu gương, đi đầu trong gian khó. Sức mạnh giúp người lính bám trụ nơi "địa ngục trần gian" ấy đến từ niềm tin. Niềm tin vào lý tưởng, và niềm tin vào người chỉ huy đã không ngần ngại vác lấy "cây cuốc" nặng nhất về phần mình.

Câu chuyện về vị tướng, Chính ủy Song Hào cho tới ngày hôm nay mãi mãi là bài học thời sự nóng hổi về trách nhiệm người đứng đầu. Nó nhắc nhở chúng ta rằng uy quyền thực sự không đến từ chức vụ mà đến từ sự dấn thân và hy sinh. Sự hy sinh cao cả nhất chính là hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì phẩm giá của con người.

...............

Tài liệu tham khảo:

- Hình ảnh và tư liệu trong bài viết do gia đình cố Thượng tướng Song Hào cung cấp.

- Về tiểu sử và vai trò Chính ủy Chiến dịch của Thượng tướng Song Hào: Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng và Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.

- Về bối cảnh "81 ngày đêm" và sự thay đổi nhân sự chỉ huy: Báo Quân đội nhân dân, Tạp chí Cửa Việt, VOV.

- Về ý nghĩa chính trị và Hội nghị Paris: Tạp chí Cộng sản, Báo VOV.

- Phần đối thoại giữa Thiếu tướng Phạm Ngọc Mậu và Trung tướng Song Hào: sách "Thượng tướng Phạm Ngọc Mậu trong ký ức đồng đội và người thân"; tác giả Phạm Ngọc Mậu, Lê Khả Phiêu, Huỳnh Đắc Hương, Trần Kinh Chi, Phạm Hồng Cư; NXB Quân đội nhân dân, 2021.

Sau Cách mạng tháng 8, Song Hào là Xứ ủy viên Bắc Kỳ của Kỳ bộ Việt Minh, phụ trách liên tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Sau đó, ông từng đảm nhiệm các vị trí Chính ủy Liên khu 10, Bí thư Quân khu ủy, Chính ủy khu Tây Bắc, Bí thư Ban cán sự bộ đội tình nguyện vùng Thượng Lào, Chính ủy Đại đoàn 308, Bí thư Đại đoàn ủy.

Tháng 5/1955, ông được giao công công tác xây dựng quân đội chính quy và được cử làm Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, ủy viên Tổng Quân ủy.

Năm 1959, ông được phong quân hàm Trung tướng trong đợt phong hàm chính quy đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần 3 (năm 1960), lần 4 (năm 1976) và lần 5 (tháng 3/1982) của Đảng, ông được bầu làm ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông được cử giữ chức ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Trưởng ban kiểm tra Quân ủy trung ương (khóa 3). Được Ban chấp hành Trung ương cử vào Ban Bí thư (khóa 4), phân công làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương.

Tháng 3/1961, ông được cử giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó bí thư Quân ủy trung ương. Ông được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1974.

Sau 1975, ông vẫn tiếp tục công tác trong quân đội cho đến tháng 4/1982. Khi chuyển sang công tác chính quyền, ông từng được phân công giữ chức Bộ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội, được chỉ định làm Chủ tịch lâm thời Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội các khóa 4,6.

Ông qua đời ngày 9/1/2004 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội, hưởng thọ 87 tuổi. 

Phút xúc động của nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa
Nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa xúc động trước những tấm lòng với biển đảo. Mỗi suất học bổng trao cho học sinh vùng biển đảo, mỗi chuyến thăm Trường Sa, đều mang trong mình thông điệp: Biển, đảo luôn ở trong tim mỗi người dân đất Việt.