Tại Hội thảo truyền thông về sức khỏe tâm thần: Hành vi tự sát, diễn ra tại Hà Nội chiều 13/12, TS.BS Nguyễn Văn Dũng - Phó viện trưởng Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai thông tin, theo một số nghiên cứu, có tới 36% người tự sát đã có hành vi tự sát từ trước. Trong đó, nhóm 10-25 tuổi chiếm tỉ lệ có hành vi tự sát cao. 

Hành vi tự sát được coi là một trong những hành vi có tính “lan truyền”, “bắt chước”.  “Tuy nhiên thay vì đưa đến bệnh viện, tại Việt Nam, không ít gia đình lại tổ chức cúng bái hay đưa đến các chuyên khoa khác, không phải chuyên khoa tâm thần. Hiện nay, nhiều người vẫn e ngại, kỳ thị đối với bệnh tâm thần. Điều này cho thấy nhiều người đang thiếu kiến thức về tâm thần”, TS.BS Dũng cho biết.

Cũng theo chuyên gia Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, tỉ lệ rối loạn trầm cảm, hành vi tự sát sau Covid-19 gia tăng. Gần đây, Bệnh viện Bạch Mai cũng tiếp nhận không ít trường hợp thua lỗ chứng khoán, vỡ nợ đến viện thăm khám. 

“Ý tưởng tự sát không phải bộc phát mà được nuôi dưỡng qua thời gian dài”, TS.BS Dũng nói thêm.

Ths Vũ Sơn Tùng - Phó Trưởng Phòng Điều trị Rối loạn cảm xúc, Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai cũng nêu các yếu tố liên quan đến tăng nguy cơ tự sát.  Đó là tiền sử gia đình và di truyền; bất hạnh thời thơ ấu; tình trạng hôn nhân; rối loạn tâm thần; bệnh lý nội khoa, rối loạn thần kinh, chấn thương sọ não, đau mạn tính.

 “Ý tưởng, hành vi tự sát được xác định là một trong những cấp cứu tâm thần. Do đó với những trường hợp này cần nhập viện ngay lập tức để theo dõi giám sát 24/24h, đặc biệt là những trường hợp trầm cảm có ý tưởng hoặc hành vi tự sát. Ở môi trường bệnh viện luôn lưu ý phải loại bỏ những vật dụng hoặc phương tiện để người bệnh có thể tự sát”, Ths Sơn Tùng cho biết.

Sự quan tâm của gia đình, bạn bè có thể ngăn ngừa các hành vi tiêu cực của người đang chán nản, bi quan. Ảnh minh họa: Bestcare

Theo Ths Tùng biện pháp đơn giản nhất để giảm tự sát là ngăn chặn khả năng tiếp cận các phương tiện tương ứng: thuốc độc, thuốc có khả năng gây độc như paracetamol, lắp đặt các rào chắn, giảm khả năng tiếp cận súng cầm tay.

 Một biện pháp khác để giảm tỷ lệ tự sát là các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng. Những đường dây trợ giúp tư vấn trực tuyến có thể giáo dục cộng đồng tại nơi làm việc và trường học để nâng cao kiến thức và giảm bớt sự kỳ thị. 

Một khía cạnh đặc biệt của phòng ngừa ban đầu bao gồm Internet và đặc biệt là phương tiện truyền thông xã hội. Đối với phòng ngừa thứ cấp, hệ thống chăm sóc sức khỏe vô cùng quan trọng. 

Một số lượng lớn 22–88% những người có ý tưởng tự sát đã tìm kiếm sự giúp đỡ bằng cách đến bệnh viện hoặc cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu. Nhân viên y tế cần nhận thức được thực tế và được đào tạo để phản ứng kịp thời, phát hiện các nguy cơ tự sát.

Bổ sung thêm về giải pháp phòng tránh tự sát, TS.BS Nguyễn Văn Dũng cho rằng người thân tự quản lý, quan tâm nhau rất quan trọng. 

TS.BS Dũng cũng nói thêm về cách nhận biết người có các bất thường. Ví dụ sau khi người thân gặp sự cố về kinh tế, tâm lý, chúng ta thấy họ thu mình, nhút nhát, biểu hiện chán đời, né tránh, hay nói về cái chết, không muốn sống… nên được theo dõi, quan tâm sát sao. Đồng thời, người thân nên khuyên những người này đến cơ sở chuyên khoa về tâm thần để được thăm khám, điều trị sớm.

“Điều trị bệnh tránh việc dùng thuốc nam hay các thuốc không có kê đơn bác sĩ cũng như tổ chức cúng bái, bắt ma trừ tà… Đây là những phương pháp phản khoa học”, bác sĩ khuyến cáo.

Theo thống kê của tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 800.000 người trên toàn thế giới chết vì tự sát mỗi năm. Tự sát đứng thứ 14 trong 250 nguyên nhân gây tử vong.

Năm 2018, ở Mỹ có hơn 48.000 người tự sát trong năm. Tự sát đứng thứ 10 trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở nước này. Các phương thức tự sát thường gặp là sử dụng súng, ngạt (treo cổ) và ngộ độc (uống thuốc).

Các chuyên gia nói thêm, khoảng 60% sẽ chuyển từ ý tưởng tự sát sang kế hoạch tự sát và từ kế hoạch tự sát sang toan tự sát trong năm đầu tiên sau khi bắt đầu có ý định tự sát.