Với người Hà Nội, mùa lũ sông Hồng không hề là điều gì đó xa lạ. Trước khi Thủy điện Hòa Bình khánh thành đi vào vận hành chính thức toàn bộ 8 tổ máy vào tháng 12 năm 1994, năm nào nước sông Hồng cũng dâng cao ngập sát chân đê. Khi có thủy điện Hòa Bình, việc trị thủy sông Hồng đem lại cho Hà Nội bớt đi những âu lo khi mùa lũ đến.

W-9870eba50327a479fd36.jpg
Mực nước sông Hồng dâng cao sau cơn bão số 3 (bão Yagi). Ảnh: Thạch Thảo

Hà Nội có một dải dân cư dọc theo đê ngoài bãi sông Hồng. Nếu chỉ tính nội thành Hà Nội và ở bên này sông thì đã có hàng mấy vạn người dân phân bố ở các phường Phú Thượng, Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, An Dương, Phúc Xá, Phúc Tân, Chương Dương…

Các cư dân phố bãi này trước khi có thủy điện Hòa Bình, mỗi năm đến mùa lũ tùy theo mức nước nhưng nói chung năm nào cũng phải gồng gánh chạy lụt.

Hà Nội những năm đó những phố dọc đê sông Hồng thành nơi trú cho cư dân phố bãi trong những ngày lũ lụt. Cơ man là lều lán, nilon căng thành mái ở vỉa hè. Người dân Hà Nội đã quen nếp sống này và như đã thành truyền thống việc cưu mang giúp đỡ nhau là chuyện rất đỗi bình thường.

Ngoài địa phận nội thành Hà Nội, tính cả đất Hà Tây nhập vào còn là một loạt làng mạc, đất đai hai bên sông Hồng từ đoạn đầu tiếp giáp ở huyện Ba Vì và đoạn cuối ở huyện Phú Xuyên. Hàng trăm cây số trải dài của sông Hồng qua Hà Nội đã tạo nên một vùng đất bãi canh tác trù phú là vựa lúa, vựa cây của một phần đồng bằng châu thổ sông Hồng. Tất nhiên, những vùng này vào mùa lũ cũng chịu chung cảnh đồng bãi ngập lụt ảnh hưởng hoa màu.

Nói đến sông Hồng là phải nhắc đến hệ thống đê dọc hai bên sông. Sông Hồng có thể nói là con sông hung dữ nhất nước. Được hợp lưu với sông Đà, sông Lô, sông Thao (là dòng chính sông Hồng khi chưa hợp lưu) nên sông Hồng càng hoành hành mùa lũ. Bởi thế hệ thống đê bao sông Hồng luôn được tu bổ chắc chắn.

Trong lịch sử đã có rất nhiều vụ vỡ đê ở thời kỳ thuộc Pháp và phong kiến, nhưng gần nhất có lẽ là mùa lụt năm 1971 xảy những vụ vỡ đê được coi là thảm họa thiên tai nặng nề nhất thế kỷ 20. Nhiều đoạn đê vỡ nhưng lưu lại trong trí nhớ ám ảnh của người dân thời đó là vỡ đê Cống Thôn khiến gần một ngàn người chết.

Năm 1971 nước sông Hồng lên cao mấp mé mặt đê. Toàn bộ mặt đê khu vực nội thành được xếp những chồng bao tải đất để gia cố cho đê và chống nước tràn. Thậm chí ở một số đoạn đê xung yếu phải đưa xe tải chất đá nặng dàn trên mặt đê để bảo vệ. Dân ngoài bãi sông lúc đó chưa có nhà chung cư cao tầng như hiện nay mà chỉ là nhà một, hai tầng, nhìn từ đê chỉ thấy mái nhà đang lút trong nước.

Trên sông nước đục ngầu đỏ chảy xiết và xoáy hút, không một phương tiện tàu bè nào dám đi lại. Cầu Long Biên để giữ tải chống trôi cầu, ngành đường sắt huy động một đoàn tàu nối dài các toa hàng chất đầy đá lấy tải trọng để đủ nặng giữ cho cầu khỏi bị nước cuốn.

Sau năm 1971 vẫn là lụt lội thường niên nhưng không còn năm nào có lũ lớn kể cả khi chưa có thủy điện Hòa Bình, ngoại trừ con lũ cộng mưa lớn năm 2008 ngập lút bãi giữa, nước lan đến thân đê, nhưng mức độ chẳng là gì so với cơn đại hồng thủy năm 1971.

Có điều này, kể cả năm 1971 mưa lớn ròng rã và nước sông to cực đỉnh nhưng đường phố Hà Nội không hề bị ngập lụt. Tôi cũng không hiểu mực nước sông Hồng cao hơn rất nhiều mặt bằng nội đô và hệ thống cống thoát của thành phố đều chảy ra sông Hồng nhưng sao nước không chảy ngược vào trong gây úng lụt

Sở dĩ nhắc lại những chuyện này để tôi nói đến hiện trạng của Hà Nội sau cơn bão Yagi đang gây lũ lụt và những thảm họa khôn lường về người và của cho miền Bắc và hiện tượng thiên nhiên này cũng đang được coi là một cơn “đại hồng thủy”. Hà Nội là nơi bão Yagi đi qua dù với thời gian thoảng nhanh nhưng cũng gây nhiều hệ lụy cây đổ và thiệt hại về người, nhà cửa…

Những cơn mưa do hoàn lưu sau bão Yagi được ví như những quả bom nước rơi xuống một loạt các tỉnh gây ra lũ quét, lũ cuốn khiến mực nước các con sông dâng cao kỷ lục so với những năm gần đây. Với Hà Nội, nhiều vùng bị ngập úng từ nội thành đến ngoại thành.

Có thể thấy rõ do mực nước sông Hồng và các con sông trong khu vực như sông Đáy, sông Tích, sông Nhuệ, sông Cà Lồ, sông Cầu…dâng cao nên khi mưa với lượng mưa lớn bất thường, Hà Nội gần như thành túi chứa nước.

Nội thành Hà Nội bây giờ cứ mưa là ngập, chả cứ mùa lũ và bão như hôm nay. Có điều đó là vì nội đô được mở rộng gấp nhiều lần so với Hà Nội của năm 1971 về trước. Người Pháp khi xây dựng Hà Nội đã nghiên cứu kỹ và xây dựng hệ thống thoát nước cực kỳ hiệu quả. Hà Nội rất ít khi đọng ngập dù mưa lớn đến đâu. Còn bây giờ thì khác.

Tốc độ mở rộng thành phố nhanh nhưng không được đồng bộ hạ tầng, nhất là hệ thống thoát nước khiến Hà Nội cứ mưa là thành ao hồ. Vẫn có hệ thống thoát bằng các con sông như Tô Lịch, Kim Ngưu dồn về hồ chứa Yên Sở để bơm thoát ra sông Hồng nhưng khả năng này khi mưa lớn là không thể đáp ứng. Thêm nữa, Hà Nội vốn có nhiều đầm, ao hồ nhưng do nhu cầu phát triển và sự thiếu nhất quán trong quy hoạch tổng thể nên hầu như các đầm ao hồ bị san lấp thành chung cư, thành khu đô thị, mất đi một khả năng chứa nước chống úng hữu hiệu.

Lệnh báo động 1 đã được ban ra sáng 10/9/2024, mực nước các con sông dẫn về sông Hồng dâng cao. Một loạt thủy điện đang phải xả nước để đảm bảo an toàn cho đập và hồ chứa. Với sông Hồng, ngoài những thủy điện lớn ở sông Đà, sông Lô như Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang…còn là hàng trăm thủy điện nhỏ và vừa ở các sông nhánh của hai con sông này như sông Chảy, sông Gâm...

Mưa lớn dài ngày, hầu hết thủy điện đều phải xả lũ. Hà Nội úng ngập nhiều khu vực, hạn chế một số phương tiện qua lại các cầu, cấm đường cao tốc Pháp Vân-Cầu Giẽ do nước ngập, nhiều nơi ứng trực kiểm tra bảo vệ đê điều và sơ tán người dân.

Hiện mực nước sông Hồng đang trên báo động 1 và dưới báo động 2. Toàn thành phố Hà Nội đang khẩn trương đối phó với mưa lụt sau bão Yagi. Hiểm họa từ lũ sông Hồng có thể nhìn thấy rõ. An toàn là mục đích cao nhất lúc này. Cũng cần nói thêm, sau nhiều năm không có lũ về, người dân đã có tâm lý chủ quan, coi thường xem nhẹ mức độ nguy hiểm của lũ lụt. Các quận có dân cư ngoài bãi sông Hồng đã chuẩn bị những điểm đón đủ khả năng tiếp nhận triệt để toàn bộ người dân sơ tán từ bãi vào điểm an toàn trong phố khi lũ sông Hồng tiếp tục dâng cao.

Và nữa, những phương án chống lũ khi xảy ra những tình huống có thể đều đã được sẵn sàng. Viết đến đây, tự nhiên tôi lại nhớ đến những ngày lũ của năm 1971 với những con phố Yên Phụ, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư…tràn ngập lều lán của người dân chạy lụt được người dân hàng phố tiếp nhận thân ái chân tình, san sẻ cưu mang, đùm bọc đúng với tinh thần và khí chất của người Hà Nội.

Hy vọng là "cơn đại hồng thủy" do bão Yagi mang đến sẽ sớm chấm dứt và Hà Nội sau những gì vừa phải gánh chịu sẽ được an toàn ở mức có thể nhất với sự toàn tâm, toàn lực của người dân cùng chính quyền các cấp.