Theo kết luận điều tra vụ Vạn Thịnh Phát giai đoạn 2, quá trình điều tra, cơ quan công an đã nhận được hàng ngàn đơn tố giác từ chủ sở hữu trái phiếu của các công ty thuộc Tập đoàn Vạn Thịnh Phát.
Nội dung tố giác nêu rõ, Công ty chứng khoán TVSI, Ngân hàng SCB và các nhân viên bán hàng của SCB có hành vi gian dối, lừa đảo, dẫn dụ khách hàng mua trái phiếu hoặc chuyển từ tiền tiết kiệm tại SCB sang ký kết hợp đồng mua trái phiếu với Công ty chứng khoán TVSI với các phương thức như sau:
Không giới thiệu cho khách hàng hiểu về sản phẩm trái phiếu, mà nói với khách hàng đây là một hình thức tiết kiệm linh hoạt, lãi suất cao, tính thanh khoản cao, được Ngân hàng SCB bảo lãnh thanh toán;
Không cho khách hàng xem trước hợp đồng mua bán trái phiếu mà hướng dẫn khách hàng chuyển tiền vào tài khoản Công ty chứng khoán TVSI, rồi sau vài tuần mới trả hợp đồng cho khách ký…
Kết luận điều tra chỉ ra rằng, với vai trò là Tổng giám đốc điều hành hoạt động chung của Ngân hàng SCB, ông Võ Tấn Hoàng đã trực tiếp chỉ đạo các bộ phận nghiệp vụ của SCB và giao cho một phó giám đốc khối ngân hàng bán lẻ phối hợp với Công ty chứng khoán TVSI xây dựng kế hoạch, phương án, tài liệu đào tạo cho hơn 2.000 nhân viên sale thuộc 239 Chi nhánh Ngân hàng SCB trên toàn quốc về sản phẩm trái phiếu và tư vấn bán trái phiếu của các công ty thuộc Tập đoàn Vạn Thịnh Phát đến đại chúng.
Theo CQĐT, có hơn 2.000 nhân viên bán hàng thuộc 239 chi nhánh Ngân hàng SCB trên toàn quốc đã được đào tạo, tập huấn để bán trái phiếu.
Kết quả điều tra cho thấy, các bị can đã hoàn thành hành vi gian dối trong hoạt động phát hành 25 gói trái phiếu “khống” của 4 công ty (An Đông, Quang Thuận, Sunny Word và Setra), bán cho nhà đầu tư, thu về tổng số hơn 30 ngàn tỷ đồng để sử dụng. Đến nay còn dư nợ hơn 30 ngàn tỷ đồng của 35.824 trái chủ và không có khả năng thu hồi.
Kiến nghị của Bộ Công an
Trong bản kết luận điều tra vụ án Vạn Thịnh Phát giai đoạn 2, CQĐT đã đưa ra nhiều kiến nghị. Cụ thể gồm:
Kiến nghị Bộ Tài chính, UBCK và các cơ quan có thẩm quyền tham mưu sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Từ đó, đảm bảo chặt chẽ về điều kiện phát hành trái phiếu, có biện pháp kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn vốn huy động và nguồn lực đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của các tổ chức phát hành.
Kiến nghị đối với các Công ty thuộc Tập đoàn VTP còn dư nợ trái phiếu có tài sản đảm bảo phối hợp với Công ty Chứng khoán TVSI và Ngân hàng SCB khẩn trương xây dựng giải pháp kinh tế tối ưu để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho nhà đầu tư.
Đồng thời, đề nghị UBCK và Sở GDCK Hà Nội (HNX) có biện pháp giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc trả nợ trái phiếu.
Trong vụ án Vạn Thịnh Phát giai đoạn 2, Chủ tịch Vạn Thịnh Phát Trương Mỹ Lan bị cáo buộc là đối tượng chủ mưu, cầm đầu, chỉ đạo các bị can, đối tượng liên quan tại Tập đoàn và Ngân hàng SCB vận chuyển trái phép 4,5 tỷ USD qua biên giới.
Các thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài không đủ điều kiện, đáng lẽ bị hệ thống tự động khóa. Nhưng các đối tượng có thẩm quyền ở Ngân hàng SCB vẫn duyệt mở khóa trên hệ thống để hoàn tất việc chuyển tiền quốc tế.
Do đó, CQĐT kiến nghị NHNN, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng và những cơ quan có thẩm quyền tham mưu sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật trong lĩnh vực chuyển tiền quốc tế, đảm bảo chặt chẽ về điều kiện chuyển tiền, có biện pháp kiểm tra, giám sát các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng chuyển tiền quốc tế.
Liên quan đến vụ án, CQĐT làm rõ việc bà Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo các đối tượng thành lập nhiều “công ty ma” sử dụng cho các mục đích riêng. Tính đến tháng 10/2022, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát có tới 1.460 công ty (gồm 46 công ty nước ngoài) và gần 1.800 người để đứng tên doanh nghiệp, đứng tên các khoản vay.
CQĐT kiến nghị Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính và các cơ quan có thẩm quyền tham mưu sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về thành lập doanh nghiệp, đảm bảo chặt chẽ về điều kiện thành lập doanh nghiệp và biện pháp kiểm soát việc thành lập, quản lý doanh nghiệp, không để hiện tượng thành lập doanh nghiệp tràn lan nhưng không hoạt động thực tế, tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng phục vụ cho những hoạt động phạm tội.