Đồng chí Lê Quang Đạo, tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện, sinh ngày 8/8/1921 trong một gia đình có truyền thống yêu nước, cách mạng tại xã Đình Bảng, nay là phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Sớm kế thừa truyền thống yêu nước, hiếu học của gia đình, dòng họ và quê hương Kinh Bắc văn hiến, ngay từ những năm 1937-1938, khi đang học tại Trường tư thục Thăng Long, với nhiệt huyết của tuổi trẻ và tinh thần năng động, sáng tạo, đồng chí đã tích cực tham gia các hoạt động yêu nước do Đoàn Thanh niên Dân chủ phát động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

{keywords}
Hơn 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Quang Đạo là nhà lãnh đạo uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

19 tuổi, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1940, đồng chí tham gia thành lập và là Bí thư Chi bộ Đình Bảng - một trong ba chi bộ Đảng của tỉnh Bắc Ninh thời điểm đó. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, Đình Bảng đã trở thành nơi có phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và trở thành địa bàn an toàn của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ trong cuộc vận động giải phóng dân tộc giành chính quyền. Cuối năm 1941, đầu năm 1942, đồng chí Lê Quang Đạo được điều động làm Bí thư Ban cán sự Đảng huyện Từ Sơn rồi Bí thư Ban cán sự Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh. Đồng chí đã lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh mẽ, kết nạp thêm nhiều đảng viên mới và mở rộng cơ sở cách mạng sang các xã thuộc huyện Tiên Du, Thuận Thành.

Trong những năm 1942-1944, trên các cương vị Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh Phúc Yên, Bí thư Ban cán sự Đảng thành phố Hà Nội, Xứ ủy viên, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Lê Quang Đạo đã tham gia chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân; xây dựng cơ sở cách mạng; phát triển đảng viên trong công nhân; tổ chức huấn luyện lý luận chính trị và tổng kết, đúc rút kinh nghiệm đấu tranh. Đặc biệt, đồng chí đã cùng Ban cán sự Đảng bộ thành phố Hà Nội sâu sát cơ sở, gắn bó mật thiết với nhân dân, xây dựng cơ quan lãnh đạo Đảng bộ thành phố trụ vững trước sự tấn công khốc liệt của thực dân Pháp, chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, trên cương vị Chính trị viên Chi đội giải phóng quân Bắc Giang, đồng chí đã cùng Ban cán sự Đảng của tỉnh, lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng trong cả nước...

Sau khi đảm nhiệm nhiều cương vị trong chặng đường hoạt động cách mạng, từ năm 1950 đến năm 1978, đồng chí Lê Quang Đạo được điều động vào Quân đội nhân dân Việt Nam. Gần 30 năm gắn bó với công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội, đảm nhiệm các cương vị, đồng chí đã cống hiến tài năng và trí tuệ, tư duy sáng tạo nhạy bén, là người chỉ huy chính trị - quân sự hội đủ những phẩm chất: “Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.  Với nhiều thành tích xuất sắc trong công tác, đồng chí Lê Quang Đạo đã được phong quân hàm Thiếu tướng năm 1958, Trung tướng năm 1974.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng; và ngay tại Hội nghị lần thứ 20 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (1972), đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Ban Bí thư.

Sau ngày đất nước thống nhất, trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng, đồng chí Lê Quang Đạo được Trung ương Đảng phân công đảm nhiệm nhiều cương vị khác nhau...

Tại Quốc hội khóa VIII (1987-1992), Quốc hội khóa đầu tiên của thời kỳ đổi mới, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.

Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, đồng chí đã cùng các lãnh đạo Đảng, Nhà nước vững vàng, kiên định triển khai đường lối đổi mới trong toàn Đảng, toàn dân, góp phần đưa cách mạng nước ta vượt qua những năm tháng khó khăn, thách thức, hiểm nghèo.

Trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đồng chí đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới sâu sắc và toàn diện về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, nhất là đẩy mạnh công tác lập hiến và lập pháp để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, phục vụ công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của đồng chí, Quốc hội đã phát huy tốt vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

Cùng với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí đã đóng góp nhiều công sức, góp phần quan trọng vào sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới.

Trong nhiệm kỳ Chủ tịch Quốc hội của đồng chí, Quốc hội đã thông qua nhiều luật và pháp lệnh quan trọng, trong đó có Luật Đất đai, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Tố tụng hình sự, Luật Báo chí, Luật Công đoàn... tạo cơ sở pháp lý để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước vững mạnh, tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật.

Quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, đồng chí Lê Quang Đạo chú trọng đổi mới phong cách làm việc của Quốc hội từ công tác chuẩn bị cho mỗi kỳ họp Quốc hội đến quá trình tổ chức, điều hành các kỳ họp. Dưới sự chỉ đạo, điều hành của đồng chí, các kỳ họp Quốc hội đã phát huy tinh thần thẳng thắn cởi mở trong thảo luận, thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn, tạo không khí dân chủ và phát huy trí tuệ, trách nhiệm của các vị đại biểu.

Năm 1993, đồng chí Lê Quang Đạo được cử làm Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; năm 1994 đồng chí được Đại hội lần thứ IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Với 17 năm tham gia Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó có 5 năm là Chủ tịch, đồng chí Lê Quang Đạo đã có nhiều đóng góp to lớn đối với công tác Mặt trận và xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Năm 1983, đồng chí đã góp phần giúp Trung ương Đảng xây dựng Chỉ thị 17-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Năm 1993, đồng chí chủ trì xây dựng Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất” - Nghị quyết tạo bước phát triển quan trọng cho việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc và công tác Mặt trận trong công cuộc đổi mới. Đồng chí còn là Trưởng Ban soạn thảo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 1999.

Với 78 năm tuổi đời, hơn 60 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Lê Quang Đạo đã phấn đấu, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. 

Hồng Anh