Với sự hỗ trợ của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Mặt trận Tổ quốc, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành Việt Nam và Hội kiều bào tại Campuchia, nhiều ngôi trường dành cho trẻ em kiều bào tại Campuchia đã ra đời.

Theo số liệu thống kê của Hội Khmer - Việt Nam và các cơ quan đại diện của Việt Nam tại Campuchia, hiện có hơn 30 điểm trường, lớp dạy học bằng hai ngôn ngữ là tiếng Khmer và tiếng Việt tại thủ đô Phnom Penh và 14 tỉnh trên đất nước Chùa tháp, với gần 1.400 học sinh theo học.

Tham dự các khoá học tiếng Việt này, học viên được học miễn phí theo chương trình của Bộ Giáo dục, Thanh niên và Thể thao Campuchia, đồng thời học theo sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam.

W-f190f52e 2acf 491b 8a70 ab683f5869b8.jpg
Cô Thạch Thị Lan trong chuyến về Việt Nam dự các chuỗi sự kiện Quốc khánh 2/9.

Cô giáo Thạch Thị Lan, Hiệu trường Trường tiểu học Hữu nghị Khmer - Việt Nam Tân Tiến (Phnom Penh) cho rằng, đối với con em người gốc Việt tại Campuchia, việc học tiếng Việt và tiếng Khmer đều rất quan trọng. Nếu học giỏi cả hai ngôn ngữ, các cháu sẽ hòa nhập được với xã hội Campuchia, đồng thời giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và có cơ hội được làm việc ở những doanh nghiệp lớn.

Theo cô giáo Lan, tuy còn nhiều khó khăn, đời sống còn vất vả, sách giáo khoa chưa đầy đủ, nhưng những giáo viên trong hệ thống trường, lớp của người gốc Việt tại Campuchia vẫn luôn nhận được sự động viên của phụ huynh, cộng đồng, vẫn sớm chiều đứng trên bục giảng. Lớp lớp thế hệ con em người gốc Việt tại đây vẫn cần mẫn học tập, tiếp thu ngôn ngữ và kiến thức để mai này mang tài sức xây dựng cả hai quê hương, vun đắp cho tình đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

Trường tiểu học Hữu nghị Khmer - Việt Nam Tân Tiến được thành lập trước năm 1994, đây là ngôi trường do Hội Khmer Việt Nam – Campuchia thành lập với mục đích kết nối cộng đồng người Việt ở Campuchia. 

Thời gian đầu, trường hoạt động dựa trên sự đóng góp của hội, nhiều hội viên bỏ tiền túi để mua sách vở, dụng cụ, sách giáo khoa…

Cô Thạch Thị Lan sang Campuchia năm 1989. Trước khi sang cô làm giáo viên dạy toán – lý cấp 2. Thời điểm Hội Khmer – Việt Nam thành lập và mở trường, với tâm huyết của một nhà giáo, cô nộp đơn xin vào dạy. 

Trường có 3 điểm trường. Khi đến trường, các em được học cả tiếng Việt và tiếng Khmer. Đối tượng học sinh là các cháu bắt đầu học lớp 1. Đến lớp 4 các cháu học song ngữ, để các cháu hòa nhập được cộng đồng nước sở tại và tiếng Việt để không quên nguồn gốc. Khi các cháu vào học, đều đã nói được tiếng Việt. Do đó việc dạy gặp thuận lợi, không khó khăn gì. 

“Nhiều cháu là con em kiều bào, sau khi học xong lớp 12 đã phát triển đi học đại học, làm tại các công ty doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư. Cuộc sống rất khá giả”, cô Thạch Thị Lan chia sẻ.

Cô cho biết thêm, thông qua việc học tiếng Việt, các giáo viên nhắc lại lịch sử của đất nước mình, công ơn của Bác Hồ, dạy về 5 điều Bác Hồ dạy.

Trường cũng đầu tư nội dung về văn hóa Việt Nam, bởi nhiều gia đình đã sang đó đến thế hệ thứ 3, thứ 4 và gần như không biết văn hóa Việt. Khi vào học, các cháu được giảng về về văn hóa phong tục, tập quán và tình yêu quê hương.

“Thời tôi mới sang, không có giáo trình, thầy cô không được qua trường lớp đào tạo chuyên nghiệp. Nay thì có bộ sách mới, bài bản, khoa học hơn, dễ dạy và học trường lớp khang trang. Giáo viên nào có kinh nghiệm, có chuyên môn sẽ hỗ trợ nghiệp vụ cho giáo viên chưa có nghiệp vụ.

Thu nhập của chúng tôi không cao, dù lương thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng chúng tôi đều tâm huyết, cố gắng bám trường, bám lớp. Gia đình chồng con luôn hỗ trợ, để các cô giáo yên tâm công tác”, cô Lan tâm sự. 

Trên hành trình bám trường, bám lớp để dạy tiếng Việt, cô Lan trải qua rất nhiều kỷ niệm vui buồn nhưng có lẽ ấn tượng hơn cả là câu chuyện về bài văn của học sinh lớp 3. 

Trong các tiết học tiếng Việt và văn học, cô cùng các giáo viên luôn cố gắng lồng ghép các sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước vào bài giảng, nhằm giúp học sinh hiểu và ghi nhớ những dấu mốc thiêng liêng. Những dịp như sinh nhật Bác Hồ (19/5), Ngày Giải phóng miền Nam (30/4) hay Quốc khánh (2/9) thường được đưa vào bài học một cách tự nhiên, gắn với nội dung giảng dạy.

Có một lần, trong tiết học văn với đề bài “Hãy kể về một chuyến du lịch của gia đình”, một học sinh đã viết về mong ước được cùng gia đình về Việt Nam nhân dịp Quốc khánh 2/9, đến viếng Lăng Bác và tham quan những danh lam thắng cảnh của quê hương.

Khi đọc bài viết ấy, cô và các giáo viên không giấu được sự xúc động, rưng rưng nước mắt và truyền tay nhau đọc với niềm tự hào. Dù các em sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, nhưng qua từng bài học, các em đã cảm nhận được ý nghĩa của những ngày lễ trọng đại và nuôi dưỡng tình yêu quê hương trong trái tim mình. Với thầy cô, đó là món quà tinh thần vô giá, là động lực để tiếp tục gieo mầm văn hoá và lịch sử Việt cho thế hệ mai sau.