
Theo Cục Chuyển đổi số (Bộ NN&MT), kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã nông nghiệp, từ lâu đã đóng vai trò trụ cột trong phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Theo số liệu năm 2024 của Bộ KH&ĐT (nay là Bộ Tài chính), cả nước có hơn 19.000 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm gần 70% tổng số hợp tác xã đang hoạt động, thu hút hàng triệu hộ nông dân tham gia. Các hợp tác xã đóng góp quan trọng trong liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, ổn định thu nhập và thúc đẩy kinh tế nông thôn bền vững.
Cục Chuyển đổi số (Bộ NN&MT) cũng cho hay, từ năm 2018 đến nay, chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác đã được triển khai bước đầu, với sự tham gia của nhiều bộ, ngành và địa phương. Theo thống kê, năm 2024 có khoảng 2.000 hợp tác xã nông nghiệp đã ứng dụng công nghệ số ở các mức độ khác nhau - từ số hóa sổ sách kế toán, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đến bán hàng qua sàn thương mại điện tử. Dù quy mô và mức độ khác nhau giữa các hợp tác xã nhưng các mô hình này đã cho thấy hiệu quả rõ rệt và xu hướng chuyển đổi từ quản trị thủ công sang quản trị số, từ tiêu thụ truyền thống sang thương mại điện tử.

Trao đổi tại diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai” được tổ chức hồi cuối tháng 10/2025 tại Hà Nội, bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khẳng định: Chuyển đổi số đang mở ra hướng đi mới bền vững và thịnh vượng cho ngành nông nghiệp Việt Nam - hiện đóng góp khoảng từ 12 - 14% GDP và có hoạt động xuất khẩu nông lâm thủy sản đang vượt qua nhiều rào cản để tiến tới cán mốc ít nhất là 65 tỷ USD trong năm 2025.
Nhận định chuyển đổi số đã, đang và sẽ giúp nông nghiệp Việt Nam tối ưu hóa năng suất, giảm chi phí sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh, bà Cao Xuân Thu Vân cũng cho rằng: Chuyển đổi số còn giúp giải quyết các bài toán khó như biến đổi khí hậu, đáp ứng các chuẩn mực phát triển bền vững, chuyển đổi xanh, cạnh tranh quốc tế và áp lực gia tăng năng suất, cải thiện đời sống của nông dân, gia tăng doanh thu cho hợp tác xã nông nghiệp và doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.
Riêng với các hợp tác xã nông nghiệp, chuyển đổi số chính là đòn bẩy tăng trưởng khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là con đường ngắn nhất để các hợp tác xã nông nghiệp nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa quy trình sản xuất và kinh doanh. Chuyển đổi số còn giúp các hợp tác xã mở rộng thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh, và tạo ra một môi trường minh bạch, tin cậy cho cả người sản xuất và người tiêu dùng…
Tuy vậy, trên thực tế, theo phân tích của bà Cao Xuân Thu Vân, tốc độ chuyển đổi số trong nông nghiệp tại Việt Nam còn chậm so với các ngành kinh tế khác. Phần lớn nông dân, hợp tác xã nông nghiệp vẫn sử dụng phương pháp canh tác, sản xuất truyền thống. Hạ tầng CNTT ở khu vực nông thôn còn yếu kém. Cùng với đó, nhân lực có chuyên môn về công nghệ số trong nông nghiệp vẫn còn thiếu.

Chỉ rõ thách thức của các hợp tác xã nông nghiệp trong chuyển đổi số đang nằm ở 5 nhóm chính gồm tài chính, hạ tầng công nghệ, thiếu hụt nhân lực, chiến lược phát triển và tiếp cận chính sách, đại diện Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho hay: Một cuộc khảo sát gần đây của liên minh đã cho thấy mức độ chuyển đổi số của hợp tác xã cả nước mới chỉ đạt 32%; chỉ có 13,6% hợp tác xã đã hoàn tất chuyển đổi số, 50% đang triển khai và 36,4% chưa thực hiện.
Bên cạnh đó, tâm lý e ngại thay đổi cũng là một trở ngại cho việc chuyển đổi số của các hợp tác xã nông nghiệp. Nhiều nông dân, thành viên hợp tác xã còn quen với phương pháp canh tác truyền thống và e ngại áp dụng công nghệ mới, cũng như thiếu niềm tin vào hiệu quả của công nghệ số.
“Câu hỏi được đặt ra: Đâu là trở ngại tâm lý lớn nhất khiến các hợp tác xã nông nghiệp và người nông dân còn ngần ngại trên hành trình chuyển đổi số? Theo tôi, một rào cản vô hình là vẫn còn nhiều hợp tác xã và các nông hộ hiểu chưa đúng bản chất của chuyển đổi số”, bà Cao Xuân Thu Vân nêu quan điểm.
Đưa ra lời giải cho vấn đề trên, đại diện Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhấn mạnh: Thực tế, chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ là câu chuyện ứng dụng công nghệ số vào toàn bộ chuỗi giá trị nông nghiệp từ sản xuất đến phân phối như một trong những ưu tiên xuyên suốt, mà còn là hành trình chiến lược để hợp tác xã và người nông dân nâng cao năng lực số trong các hoạt động cốt lõi như: Sản xuất, quản lý, nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin; giám sát chất lượng nông sản; giảm phát thải và ô nhiễm môi trường, cũng như trong hoạt động marketing, kết nối cung cầu, quản trị nhân sự…
Một trong những giải pháp được Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tập trung giai đoạn tới là liên minh sẽ đóng vai trò trung tâm điều phối hệ sinh thái hợp tác xã số, nhất là thông qua việc xây dựng, phát triển và quản lý các nền tảng số, thúc đẩy số hóa quy trình hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp, kết nối, đào tạo và hỗ trợ hợp tác xã ứng dụng công nghệ. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ các hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn dài hạn, đơn giản hóa thủ tục vay để nâng cấp thiết bị CNTT, số hóa dữ liệu, sử dụng phần mềm quản lý.
