Hoài niệm về những “biểu tượng”

“Làng không cổng chẳng khác gì nhà không cửa”, hoặc “Nhà có nóc, làng có cổng” là cách cha ông chúng ta nói về chức năng của những chiếc cổng làng – một công trình kiến trúc mang tính biểu tượng của làng xã xưa.

Thực tế, hình ảnh cây đa, giếng nước, mái đình hay chiếc cổng làng đã đi vào thơ ca nói riêng, hằn sâu trong tâm thức của bao người xa quê bởi đây chính là những biểu tượng đầy sức sống và làm nên bản lĩnh của từng ngôi làng. Chính vì thế, bất cứ ngôi làng nào của các vùng quê Bắc Bộ, chúng ta dễ dàng thấy dù làng to hay nhỏ đều có những cổng làng và mặc định là công trình kiến trúc không thể thiếu. 

Theo ông Nguyễn Văn Mền, Hội viên Hội Cựu chiến binh tỉnh Ninh Bình, cổng làng xưa kia chứa đựng rất nhiều mục đích sử dụng cũng như ý nghĩa văn hóa. Cụ thể, cổng làng trước hết đề phòng trộm cướp, địch họa. Thậm chí nhiều làng quê còn có cổng ngõ, cổng từng khu xóm. Đơn cử, khi tiếng kẻng báo động vang lên báo hiệu có trộm cướp, hay địch càn (thời kháng chiến chống Pháp-NV), người dân chỉ cần đóng cổng, đốt đuốc lên là kẻ gian khó đường tẩu thoát.

Về mặt kiến trúc và trang trí, cổng làng lưu giữ một kho báu văn hóa vô giá. Kết cấu của cổng làng tùy vào địa thế, vai trò và điều kiện kinh tế của từng địa phương nên sẽ có những kết cấu khác nhau. Nhưng về cơ bản, kiến trúc của cổng làng thường không cầu kỳ, phô trương mà toát lên vẻ tôn nghiêm, trang trọng, thể hiện sự nền nếp, kỷ cương của văn hóa làng xã.

W-Cong lang xưa .jpg
Một cổng làng cũ tại Hà Nội bị bịt lại và đang trở nên hoang tích theo thời gian.

Cụ thể, đa phần các cổng làng xưa làm hai tầng theo nguyên lý kiến trúc “thượng gia hạ môn”, nhưng cũng có những cổng làng một tầng (gọi là cổng một gian). Số cửa ra vào thường là: một cửa chính (cổng nhỏ), hoặc một cửa chính và hai bên có hai cửa phụ thấp và nhỏ hơn. Nguyên tắc đăng đối, trang trí hài hòa với cửa chính, tạo thành một tổng thể kiến trúc thống nhất tựa như những ngôi tam quan của chùa hay đình làng.

Đa dạng về kiến trúc cổng làng

Về số lượng, làng thường có đầu làng và cuối làng nên số cổng làng cũng tương ứng. Cụ thể, mỗi làng thường chỉ có một cổng duy nhất nhưng cũng có nhiều làng dựng hẳn hai cổng (cổng trước và cổng sau). Vị trí cổng làng thường án ngữ con đường cái dẫn vào làng, và sẽ tùy thuộc “hướng làng”. Nếu làng nào có chiều rộng theo hướng Đông – Tây thì người xưa sẽ ưu tiên xây cổng làng hướng về phía Đông Nam, với lí do đón hướng của mặt trời mọc, hướng của gió lành, thể hiện ước vọng về sự sinh sôi, tươi tốt.

Ở chiều ngược lại, nếu làng nào sung túc hoặc có nhiều người đỗ đạt khoa bảng thì sẽ xây thêm cổng hậu. Cổng hậu của làng thường hướng về phía tây, hướng mặt trời lặn nhằm tiễn đưa những vướng bận, u sầu, không may mắn. Đa phần, nếu cổng hậu của làng là đường ra nghĩa trang thì sẽ mang hàm ý cánh cửa ấy “mở ra” sẽ là cửa tiễn đưa người mất về cõi vĩnh hằng, tây phương cực lạc… Do vậy, hướng cổng làng và vị trí xây cổng làng được người xưa rất quan tâm và chú ý.

Về phần trang trí, thẩm mỹ, theo KTS Nguyễn Phú Đức, Viện Quy hoạch kiến trúc, nét đặc trưng của cổng làng xưa ngoài yêu cầu khắt khe về kích thước (chiều cao không vượt quá nóc đình, chiều rộng không gấp đôi đường cái quan vào làng…) thì những “thành tích”, “truyền thống” của làng sẽ được thể hiện thông qua những “đại tự” đề trên cổng. Theo đó, những làng giàu có hay có truyền thống khoa bảng, hoặc các làng nghề... thì những cái hay cái đẹp, những gì tinh túy nhất của làng đều được các vị túc nho, bô lão chuyển thể thành những đại tự/câu đối. 

Thế nên mới có chuyện, người lạ đến chỉ cần nhìn cổng làng là đã biết địa danh này có những quan văn, võ tướng hay có nghề truyền thống là gì. Ví dụ cổng làng Ước Lễ (chuyên làm giò chả), cổng làng Phú Đô (chuyên làm bún); Cổng làng Thổ Hà (làm gốm)…; hoặc những danh xưng như “Đông Cổ am, nam Hành thiện” hay “Bắc Thành, Nam Trấn” liên quan đến “đất văn, miền võ” cũng ra đời từ đây. Việc lựa chọn câu đối hay, hoa văn và biểu tượng nào phác họa trên cổng làng đều phải được tính toán tỉ mỉ. Nội dung không chỉ nói về truyền thống tốt đẹp, thanh cao của làng xã, đây còn là những bản “hương ước” thu nhỏ với những lời răn dạy đạo lý để con cháu của làng đi xa về gần đọc mà tự răn mình.