Tham dự Hội thảo có Phó Đại sứ Na Uy tại Việt Nam bà Mette Møglestue; Tiến sĩ Kåre Helge Karstensen, Chuyên gia cao cấp và Quản lý Chương trình của SINTEF; Ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch VNCA và các đại biểu đại diện cho các tổ chức quốc tế, các bộ ngành Việt Nam. 

Phó Đại sứ Na Uy Mette Møglestue phát biểu khai mạc

Trong bài phát biểu khai mạc, Phó Đại sứ Na Uy Mette Møglestue cho biết: “Na Uy và Việt Nam, cũng như các thành viên tham gia Thỏa thuận Paris, đều cam kết mạnh mẽ trong việc chống biến đổi khí hậu và thực hiện các Đóng góp Quốc gia tự quyết định (NDC) nhằm giảm phát thải khí nhà kính (GhG). Để đạt mục tiêu này cần sự tham gia của nhiều lĩnh vực. 

Chính phủ Na Uy đánh giá cao vai trò quan trọng của các viện nghiên cứu, khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các ngành công nghiệp trong quá trình này. Tôi rất vui khi biết rằng, kết quả nghiên cứu của SINTEF trong việc sử dụng chất thải nhựa không thể tái chế làm nhiên liệu thay thế cho lò nung xi măng đã được chứng minh thành công và có thể được nhân rộng ở Việt Nam. 

Thông qua Dự án OPTOCE do Chính phủ Na Uy tài trợ và đang được thực hiện tại 5 quốc gia châu Á trong đó có Việt Nam, chúng tôi hy vọng Na Uy có thể giúp ngành xi măng Việt Nam nâng cao năng lực xử lý chất thải nhựa không thể tái chế và góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam”.

Tiến sĩ nhà khoa học Kåre Helge Karstensen của SINTEF nhấn mạnh: “Ngành công nghiệp xi măng hiện đang sử dụng khối lượng lớn than và các nguyên liệu thô khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể thay thế một phần hoặc toàn bộ lượng nhiên liệu này này bằng chất thải nhựa không thể tái chế. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, việc đồng xử lý chất thải nhựa không thể tái chế làm chất thay thế nhiên liệu trong các lò nung xi măng không làm tăng phát thải dioxin trong khi vẫn tuân thủ các giá trị giới hạn quốc tế nghiêm ngặt nhất. 

Đồng xử lý trong lò nung xi măng có thể cải thiện việc quản lý chất thải nhựa không thể tái chế ở Việt Nam. Giải pháp này làm giảm tiêu thụ than trong ngành công nghiệp xi măng đồng thời giảm nhu cầu xây dựng các lò đốt phát điện đắt tiền (biến chất thải thành năng lượng). Quan trọng hơn, ngành công nghiệp xi măng nói chung có thể đóng một vai trò quan trọng trong giảm lượng phát thải GhG và ngăn chặn chất thải nhựa đổ vào đại dương”. 

Mặc dù đồng xử lý đang được áp dụng rất phổ biến ở châu Âu và Na Uy, nhưng giải pháp này còn chưa được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, chỉ có một số ít các nhà máy xi măng đang thực hiện đồng xử lý chất thải. Phó giáo sư, Tiến sĩ Lương Đức Long, VNCA cho biết: “Việt Nam có 82 lò nung clanhke đang hoạt động, mỗi năm tiêu thụ trên 10 triệu tấn than antraxit. Hiện nay tỉ lệ sử dụng nhiên liệu thay thế trong toàn ngành rất thấp. Chính phủ Việt Nam có chủ trương tăng lượng sử dụng nhiên liệu thay thế lên mức 15% từ nay đến 2030 và 30% sau năm 2030. Như vậy, tiềm năng đồng xử lý chất thải, trong đó có nhựa không tái chế được, trong lò nung xi măng ở Việt Nam là rất lớn”. 

Hội thảo là diễn đàn hữu ích để các nhà khoa học, các nhà quản lý đến từ bộ, ngành và địa phương, các công ty xi măng, các công ty có nguồn chất thải nhựa không thể tái chế và các tổ chức phi chính phủ chia sẻ thông tin về tiềm năng, thuận lợi và khó khăn khi áp dụng đồng xử lý chất thải tại Việt Nam. 

Bảo Đức