Phát triển du lịch nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới đang trở thành hướng đi quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo sinh kế và nâng cao đời sống người dân. Để du lịch nông thôn đi vào chiều sâu, hạn chế tính tự phát và phát huy giá trị lâu dài, vai trò và năng lực của đội ngũ cán bộ ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn có ý nghĩa then chốt.
Du lịch nông thôn không chỉ khai thác tài nguyên sẵn có, mà đòi hỏi sự tổ chức bài bản, gắn kết hài hòa giữa kinh tế, văn hóa và môi trường. Trong tiến trình đó, cán bộ là lực lượng trực tiếp tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng định hướng phát triển, lựa chọn mô hình phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa bàn. Chất lượng tham mưu quyết định việc du lịch nông thôn có phát triển đúng tiềm năng hay rơi vào tình trạng manh mún, thiếu bền vững.

Theo báo cáo của Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), vai trò của cán bộ thể hiện rõ nét qua nhiều mô hình cụ thể trên cả nước. Tại khu vực miền núi phía Bắc, mô hình du lịch cộng đồng ở Sa Pa (Lào Cai) là ví dụ tiêu biểu. Ở các bản Cát Cát, Tả Van, Tả Phìn, cán bộ đã trực tiếp hướng dẫn cộng đồng tổ chức hoạt động du lịch dựa trên bản sắc văn hóa dân tộc Mông, Dao; đào tạo kỹ năng phục vụ, quản lý homestay; đồng thời định hướng giữ gìn cảnh quan, không gian sinh hoạt truyền thống. Sự đồng hành sát sao của cán bộ đã giúp các mô hình du lịch cộng đồng tại đây phát triển ổn định, tạo sinh kế và nâng cao nhận thức của người dân về bảo tồn văn hóa gắn với phát triển kinh tế.
Tại đồng bằng sông Hồng, mô hình du lịch làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) cho thấy rõ vai trò kết nối và tổ chức của đội ngũ cán bộ. Theo báo cáo, cán bộ đã hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu, hướng dẫn tổ chức các hoạt động trải nghiệm làm gốm, giới thiệu lịch sử làng nghề, đồng thời phối hợp xây dựng tuyến tham quan phù hợp. Nhờ đó, du lịch làng nghề không chỉ góp phần bảo tồn nghề truyền thống, mà còn mở ra hướng phát triển kinh tế dịch vụ cho cộng đồng dân cư địa phương.
Ở miền Trung, mô hình du lịch sinh thái rừng dừa Cẩm Thanh (Hội An, Quảng Nam cũ) phản ánh rõ vai trò định hướng của cán bộ trong khai thác tài nguyên gắn với bảo tồn. Cán bộ đã hướng dẫn người dân tổ chức hoạt động tham quan, trải nghiệm gắn với hệ sinh thái rừng ngập mặn; đào tạo kỹ năng quản lý, bảo đảm an toàn; đồng thời kiểm soát việc khai thác tài nguyên theo hướng bền vững. Mô hình này trở thành minh chứng cho cách tiếp cận phát triển du lịch nông thôn hài hòa giữa sinh kế và bảo vệ môi trường.
Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, các mô hình du lịch miệt vườn gắn với vườn cây ăn trái tại Tiền Giang cũ, Bến Tre cũ, Cần Thơ cho thấy dấu ấn rõ nét của đội ngũ cán bộ trong việc hỗ trợ cộng đồng. Theo báo cáo, cán bộ đã hướng dẫn người dân tổ chức không gian đón khách, xây dựng hoạt động trải nghiệm hái trái, thưởng thức ẩm thực miệt vườn; đồng thời kết nối với các doanh nghiệp lữ hành để hình thành các tour trải nghiệm phù hợp. Nhờ đó, du lịch miệt vườn từng bước trở thành sinh kế bổ trợ quan trọng, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Không chỉ trực tiếp hỗ trợ xây dựng mô hình, cán bộ còn đóng vai trò quan trọng trong công tác đào tạo và nâng cao năng lực. Theo báo cáo, trong hơn ba năm qua, đã có hơn 13.000 lượt cán bộ, chủ thể và lao động du lịch nông thôn được tập huấn. Hoạt động này góp phần chuyển biến nhận thức, thay đổi tư duy từ quản lý hành chính sang tư duy kinh tế dịch vụ, từ phát triển đơn lẻ sang liên kết theo chuỗi giá trị.
Trước yêu cầu mới, cần tăng cường đào tạo chuyên sâu, đổi mới cơ chế phân cấp, trao quyền chủ động hơn cho cán bộ cơ sở; đẩy mạnh phối hợp liên ngành và ứng dụng công nghệ số trong quản lý, quảng bá du lịch nông thôn. Điều này góp phần đưa du lịch nông thôn phát triển bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn tới.