Những bài học về đối nhân xử thế

Bộ sách được in bìa cứng trang trọng, với phong cách trình bày cổ điển và minh họa đậm chất dân gian truyền thống.

Năm 1866, Trương Vĩnh Ký sáng lập ra tờ báo viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên: tờ Gia Định Báo và Huỳnh Tịnh Của là chủ bút. Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký xuất bản lần đầu vào năm 1866 tại Sài Gòn là một trong những cuốn sách đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ. Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của là cuốn tự điển đầu tiên do người Việt biên soạn. Hai ông đã có công lớn trong việc phổ biến chữ Quốc ngữ. Còn Vương Hồng Sển là nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tầm đồ cổ ở thế kỷ XX.

Cả ba tác giả đều là những người am tường, say mê tìm hiểu về văn hóa, có nhiều tác phẩm khảo cứu giàu giá trị tri thức, văn hóa và lịch sử.

Ở trang đầu tiên Chuyện đời xưa, tác giả Trương Vĩnh Ký ghi rằng ông “Lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích” để đưa vào cuốn sách này. Trong số 74 câu chuyện, bạn đọc có thể thấy một số tác phẩm quen thuộc như Ông Cống Quỳnh, Mưu trí hơn là sức mạnh, Thằng khờ đi mua vịt... bên cạnh những chuyện mới mẻ, do tác giả dày công sưu tập về cách ăn ở, ứng xử trong đời. Điểm giá trị trong cuốn sách này nằm ở hai điều: độ hiếm của các câu chuyện sưu tầm và ngôn ngữ thời đó.

img 8716.jpg

Đặc biệt, cuốn sách này ban đầu Trương Vĩnh Ký viết ra là để cho “con nít tập đọc chữ Quốc ngữ, cùng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen”. Về ngôn ngữ, ông tự đánh giá: “người ta dùng sách nầy mà học tiếng thì lấy làm có ích, vì trong ấy cách nói là chính cách nói tiếng An-Nam ròng, có nhiều tiếng, nhiều câu thường dùng lắm”.

Chuyện cười cố nhân của tác giả Vương Hồng Sển gồm 203 truyện, tổng hợp từ 43 sách và tài liệu cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, có nhiều cuốn trong đó đã tuyệt bản. Là một người đọc và sưu tầm nhiều tư liệu, điểm đắt giá trong tác phẩm chính là những lời bàn, bản gốc, tư liệu tham khảo, giải thích từ ngữ, chứ không chỉ ở nội dung câu chuyện. Như trong bài Mảng lo viết văn, vốn dịch từ bản tiếng Pháp, bên dưới bản tiếng Việt ông đăng hẳn ba bài văn Pháp để bạn đọc tiện so sánh đối chiếu.

img 8725.jpg

Hoặc như trong bài Giấu cày, tác giả đăng cả phiên bản bằng tiếng miền Nam và miền Bắc. Trong bài Uống rượu bằng chén, ông tỉ mỉ giải thích về “chén hạt mít”, “chén mắt trâu”, “chén tốt, chén quân, chén tống”...

Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của trong phiên bản lần này có đặc trưng là giữ nguyên bản những từ ngữ rặt Nam Bộ và cách hành văn mà tác giả đã dùng ở thời điểm viết tác phẩm, giúp bạn đọc tiếp cận và hiểu thêm về ngôn ngữ vùng đất mới khai phá nửa sau thế kỷ 19. Tác phẩm được viết với ngôn ngữ bình dân để phù hợp với dân trí và nhận thức của người dân Nam Bộ lúc đó.

img 8733.jpg

Nhưng Chuyện giải buồn ở đây cũng không phải là mua vui, mà là những câu chuyện nhẹ nhàng, ý nhị dùng làm bài học khuyên đời. Đoạn cuối hoặc câu cuối thường là lời đúc kết thấm thía. 

Ba cuốn sách này chuyên chở những bài học về đối nhân xử thế, phản ánh phong tục, cách nghĩ, lời ăn tiếng nói của người bình dân, vừa mang lại những tiếng cười vui, vừa ẩn tàng sự thâm thúy.

Như Trương Vĩnh Ký đã viết trong phần Ý sách chuyện đời xưa: Đây là “Những chuyện kẻ lớn trước ta bày ra để mà khen sự tốt, chê sự xấu cho người ta sửa cách ăn, nết ở cho tử tế”.

Đọc sách, độc giả sẽ bắt gặp những câu chuyện rất quen thuộc mà các bộ sách thiếu nhi sau này soạn lại nhiều lần, mang hơi hướm ngụ ngôn, cổ tích, hoặc kể về sự việc trong đời sống. Đó là các chuyện cười chê sự hà tiện, cậy mạnh, thói tham lam, sự dốt mà hay nói chữ, tính dối trá, việc vong ân phụ nghĩa, thói biếng nhác, nghề ăn trộm...

Một thời đại đã qua trong chữ Quốc ngữ

d5935bed16cdbb93e2dc.jpg

Bộ sách Chuyện đời xưa - Chuyện giải buồn - Chuyện cười cổ nhân đưa người đọc quay về quá khứ, quan sát đời sống của người dân Việt Nam nhiều thế kỷ trước, với những tập tục, nếp sinh hoạt, các nghề nghiệp và mối quan hệ xã hội thuộc về một thời đã qua. Tất cả đều được phác họa nên bằng lời văn Quốc ngữ bình dị mà giàu sức sống, ngồn ngộn chất dân gian.

Đọc sách, độc giả thấy được một chặng đường phát triển của chữ Quốc ngữ từ xưa đến nay, hiểu thêm về sự phong phú và sức biểu cảm của tiếng nói dân tộc mình, sẵn dịp trau dồi thêm vốn liếng ngôn ngữ.

Cả ba nhà văn hoá ở thế kỷ XVIII và XIX đều góp phần gìn giữ tiếng Việt và hồn Việt với tinh thần của những nhà khoa học, nhà dân tộc học nghiêm túc, tôn trọng nhân dân, không phán xét hay khen chê chủ quan, chỉ một lòng ghi nhận tất cả những nét riêng của chuyện dân gian ở nước ta thuở đó.