Tại Hội thảo khởi động Dự án FAO TCP/VIE/4001 “Hỗ trợ phát triển kinh tế vườn tuần hoàn thích ứng với biến đổi khí hậu tại miền Bắc Việt Nam”, bà Cầm Thị Phong, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Sơn La, nhấn mạnh: “Minh bạch hóa sản xuất và xây dựng thương hiệu bài bản là chìa khóa tạo niềm tin với thị trường và phát triển bền vững.”
Sơn La hiện có hơn 73.000 ha cây ăn quả, sản lượng trên 430.000 tấn mỗi năm; diện tích rau hơn 12.600 ha, sản lượng khoảng 185.000 tấn. Quy mô này là nền tảng để tỉnh đầu tư xây dựng chuỗi giá trị nông sản khép kín và xuất khẩu chính ngạch. Tỉnh đã cấp 218 mã số vùng trồng, 8 cơ sở đóng gói đạt chuẩn cho xoài, nhãn, chanh leo, chuối, mận… Hệ thống truy xuất nguồn gốc giúp sản phẩm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chất lượng, củng cố uy tín với người tiêu dùng.

Thương hiệu nông sản Sơn La được đầu tư bài bản với 31 sản phẩm được bảo hộ, trong đó có ba chỉ dẫn địa lý như xoài Yên Châu, nhãn Sông Mã, chè Shan Tuyết; 26 nhãn hiệu chứng nhận và hai nhãn hiệu tập thể. Nhờ đó, nhiều đặc sản Sơn La đã có mặt tại siêu thị lớn, sàn thương mại điện tử và cả trên các chuyến bay thương mại, góp phần đưa hình ảnh nông sản miền núi Việt đến với người tiêu dùng cả nước.
Công nghệ là “đòn bẩy” để Sơn La nâng chuẩn sản xuất sản phẩm nông sản. Tỉnh đã công nhận 8 vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, áp dụng nhà màng, tưới nhỏ giọt, bao quả, QR truy xuất và hệ thống cảm biến giám sát. Hơn 5.600 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP, hơn 260 ha sản xuất hữu cơ, từng bước hình thành vùng nguyên liệu sạch, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường. Việc sử dụng chế phẩm vi sinh, enzyme sinh học thay thế thuốc hóa học, cùng hệ thống tưới tiết kiệm trên 3.200 ha và gần 120 ha nhà màng, nhà kính, đã giúp giảm chi phí, tiết kiệm nước và bảo vệ môi trường.
Theo bà Phong, việc kết hợp thương hiệu và công nghệ không chỉ giúp sản phẩm Sơn La có “hộ chiếu” ra thị trường quốc tế mà còn nâng cao giá trị, giảm rủi ro trong bối cảnh thị trường biến động. “Chúng tôi chú trọng chất lượng và tiêu chuẩn hơn là mở rộng diện tích. Khi mỗi sản phẩm minh bạch và sản xuất theo quy trình tiên tiến, nông sản Sơn La sẽ có giá trị cao hơn”, bà Phong nói.
Để hạn chế tình trạng tiêu thụ tươi, tỉnh khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ chế biến, bảo quản. Hiện Sơn La có 17 nhà máy chế biến hiện đại, hàng trăm kho lạnh và gần 3.000 cơ sở sấy nông sản, giúp đa dạng hóa sản phẩm và kéo dài thời gian bảo quản. Đây là khâu then chốt giúp nông dân và doanh nghiệp chủ động đầu ra, nâng lợi nhuận và ổn định sản xuất.
Hướng tới năm 2030, Sơn La đặt mục tiêu mở rộng diện tích cây ăn quả lên 90.000 ha, rau 15.000 ha; đưa 20% sản lượng vào chế biến sâu; 10% diện tích áp dụng mô hình tuần hoàn; xây dựng 10 vùng sản xuất công nghệ cao và ít nhất 5 mô hình mẫu vườn tuần hoàn cấp tỉnh.
Nhờ chiến lược thương hiệu và công nghệ, Sơn La đang từng bước khẳng định vị thế trung tâm nông nghiệp công nghệ cao của vùng, từ vùng nguyên liệu lớn đến chuỗi giá trị minh bạch và chuẩn hóa. Hướng đi này không chỉ giúp tỉnh mở rộng thị trường, mà còn tạo nền tảng cho nền nông nghiệp miền núi phát triển bền vững, thân thiện môi trường và có sức cạnh tranh quốc tế.