Biển Đông có rất nhiều tài nguyên và có vị trí quan trọng với tư cách là tuyến đường giao thông huyết mạch trên biển của thế giới. Trong nhiều năm qua, khu vực này luôn là điểm nóng, tiềm ẩn nhiều bất trắc, những tranh chấp phức tạp vẫn xảy ra.

Kỷ niệm 40 năm ra đời UNCLOS 1982 là dịp chúng ta tiếp tục đề nghị các quốc gia liên quan tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật trên các vùng biển và đại dương, cùng xây dựng Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, mang lại thịnh vượng cho tất cả các quốc gia trong khu vực.

W-biendong.png
Ảnh minh hoạ

PGS, TS Nguyễn Chu Hồi nhấn mạnh, với UNCLOS, Việt Nam không chỉ theo đuổi quyền lịch sử, mà còn theo đuổi cả quyền pháp lý; phù hợp với đặc trưng, thế và lực của Việt Nam. Là thành viên chính thức của UNCLOS, chúng ta được hưởng đầy đủ các quyền trong vùng biển từ 200 hải lý trở vào, bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cùng với việc đó thì ta cũng được hưởng quy định, quy chế về quyền khai thác tài nguyên.

UNCLOS tạo cơ sở để chúng ta vững tin phát triển lĩnh vực dầu khí như một ngành kinh tế tiên phong, và đến nay vẫn là một ngành then chốt trong sáu lĩnh vực kinh tế biển cơ bản của đất nước. Có những thời điểm dầu khí là ngành kinh tế đóng góp lớn nhất vào GDP.

Tương tự với đánh bắt hải sản. Còn nhiều vấn đề với ngành này, nhưng chúng ta cũng đã phát triển được nghề cá thương mại, đánh bắt với quy mô lớn, bài bản, song song với nghề cá truyền thống vốn đã tồn tại lâu nay. Một số lĩnh vực khác phát triển sau nhưng cũng rất hứa hẹn như hàng hải; du lịch biển; tìm kiếm cứu hộ cứu nạn, năng lượng tái tạo… Tóm lại, UNCLOS trao cho ta quyền pháp lý đi kèm với quyền được khai thác tài nguyên để phát triển kinh tế biển.

Trên cơ sở UNCLOS, một dấu mốc không thể không nhắc đến là Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Có thể nói đây là lần đầu Trung ương ban hành một chiến lược riêng, thể hiện ý chí biển cả của dân tộc, hoà nhập với xu hướng thế giới nhìn nhận thế kỷ 21 là “thế kỷ của đại dương”. Tiếp đó, Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 ban hành ngày 22/10/2018 đã định hướng tầm nhìn chiến lược biển, lấy trục phát triển bền vững là chính.

Vận dụng UNCLOS 1982 để đưa Việt Nam trở thành quốc gia giàu mạnh về biển, chúng ta kiên trì, kiên quyết bảo vệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Sử dụng có hiệu quả các phương thức, biện pháp hòa bình để ngăn ngừa, hóa giải và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa.

UNCLOS năm 1982 bao gồm tất cả mọi khía cạnh liên quan đến Luật Biển và được các quốc gia chấp nhận theo nguyên tắc “nhất trí”. UNCLOS năm 1982 gồm 17 phần với 320 điều khoản, cùng 9 phụ lục với hơn 100 điều khoản và 4 nghị quyết kèm theo, chứa đựng 1.000 quy phạm pháp luật quốc tế.

 

Và không chỉ vậy, vận dụng đúng đắn, linh hoạt UNCLOS 1982 cũng còn là nền tảng để Việt Nam cũng như mọi quốc gia khác trên thế giới hướng đến những cơ chế hợp tác, phát triển, cùng có lợi…, đồng thời “kề vai góp sức” trong nhiệm vụ chung cực kỳ nặng nề: Bảo vệ môi trường biển, bảo vệ “mái nhà chung” Trái đất, bảo vệ nhân loại trước những hệ lụy vô cùng khốc hại của biến đổi khí hậu toàn cầu.

Theo PGS, TS Nguyễn Chu Hồi, UNCLOS, được coi là “Hiến pháp về biển và đại dương”, UNCLOS đã giúp giải quyết được khoảng gần một phần hai trong tổng số 500 vùng biển chồng lấn. Với 168 thành viên, chưa kể nhiều quốc đảo và vùng lãnh thổ không là thành viên chính thức cam kết tuân thủ (ngay cả Mỹ tuy không tham gia nhưng trong các tuyên bố của mình vẫn lấy UNCLOS làm trục cơ sở), UNCLOS không giải quyết chi tiết mọi vấn đề biển, nhưng là căn cứ để thống nhất xử lý các vấn đề biển đã, đang và sẽ nảy sinh.