Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ về kết quả rà soát, kiểm tra bổ sung liên quan đến chất lượng, an toàn thực phẩm sản phẩm nước mắm. Theo đó, 100% mẫu nước mắm khảo sát ngẫu nhiên đều cho kết quả an toàn.

Cụ thể, 247/247 mẫu nước mắm của 210 nhãn hiệu khác nhau từ 82 cơ sở sản xuất không nhiễm thạch tín (Arsen vô cơ), không ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.

100% an toàn

Báo cáo của Bộ NN-PTNT cũng cho biết, các tài liệu của nhiều tổ chức quốc tế, cơ quan nghiên cứu, kiểm soát an toàn thực phẩm có uy tín trên thế giới như Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc - FAO, Tổ chức Y tế thế giới – WHO, Cơ quan An toàn thực phẩm Châu Âu – EFS… Arsen có thể tồn tại dưới dạng vô cơ và hữu cơ.

{keywords}

Arsen hữu cơ là kết quả của quá trình trao đổi chất tự nhiên, do đó có trong thực phẩm (bao gồm cả cá). Vì vậy, sản phẩm nước mắm được lên men từ cá có tồn tại asen hữu cơ. Asen hữu cơ không gây độc cho người. Vì vậy không cần đánh giá mức độ nguy hại và quy định giới hạn tối đa trong thực phẩm (đặc biệt là sản phẩm nước mắm với mức nhập lượng tiêu thụ hàng ngày rất thấp).

Trong khi đó, Asen vô cơ (còn gọi là thạch tín) gây độc cho con người, do vậy, có quy định giới hạn tối đa (hàm lượng an toàn) trong thực phẩm.

Hiện nay, theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm do Bộ Y tế ban hành QCVN 8-2:2011/BYT, hàm lượng Arsen vô cơ tối đa trong nước chấm (gồm cả nước mắm) được quy định là 1 mg/kg.

Kết quả khảo sát trên tạp chí Food Chemistry (tháng 2/2008) về hàm lượng Arsen có trong nước mắm sản xuất ở Việt Nam và Thái Lan xuất sang Áo cho thấy tổng Arsen chỉ từ 0,69-2,75 mg/l, trong đó chủ yếu là arsenobetaine, một dạng Arsen hữu cơ không độc hại, không phát hiện As vô cơ.

Theo công bố ngày 22/10/2016 của Bộ Y tế, 247/247 mẫu nước mắm của 210 nhãn hiệu sản phẩm nước mắm khác nhau của 82 cơ sở sản xuất (lấy ngẫu nhiên trên thị trường và một số siêu thị) được kiểm nghiệm không phát hiện Asen vô cơ. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả khảo sát của quốc tế được công bố nêu trên.

Còn vấn đề quy định về phụ gia trong sản xuất nước mắm, tiêu chuẩn quốc tế về nước mắm do Việt Nam và Thái Lan đồng đề xuất Ủy ban tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế (CODEX) ban hành (Codex Standard 302-2011: Standard for fish sauce) quy định 17 phụ gia được phép sử dụng trong sản xuất nước mắm thuộc 6 nhóm: chất điều chỉnh axit, chất điều vị, chất tạo ngọt, phẩm màu, chất ổn định và chất bảo quản.

Bộ Y tế cũng đã ban hành Thông tư 27/2012/TT-BYT và Thông tư 08/2015/TT-BYT quy định 400 phụ gia được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm, trong đó qui định 17 phụ gia được phép sử dụng trong sản xuất nước mắm hoàn toàn phù hợp với Tiêu chuẩn quốc tế Codex Standard 302-2011: Standard for fish sauce. Như vậy, theo quy định hiện hành, trong sản xuất nước mắm có thể sử dụng một hoặc một số phụ gia nằm trong danh sách 17 phụ gia quy định tại Thông tư 27/2012/TT-BYT và Thông tư 08/2015/TT-BYT.

Theo Thông tư 27/2012/TT-BYT và Thông tư 08/2015/TT-BYT về quản lý phụ gia thực phẩm, việc sử dụng phụ gia thực phẩm trong sản xuất nước mắm là được phép nếu phụ gia đó nằm trong danh mục cho phép, đảm bảo độ tinh khiết, đúng đối tượng sử dụng và không vượt ngưỡng theo quy định

Làm rõ nước mắm truyền thống và nước mắm pha chế

Riêng về chất lượng nước mắm và việc ghi nhãn minh bạch, bảo đảm quyền của người tiêu dùng, Bộ NN-PTNT cho biết, Bộ sẽ tổ chức rà soát Tiêu chuẩn Việt Nam về nước mắm (TCVN 5107:2003) để làm rõ khái niệm nước mắm truyền thống, phân biệt với các loại sản phẩm khác pha chế từ nước mắm.

Kết quả thanh, kiểm tra cho thấy hiện nay, một số cơ sở sản xuất chỉ thể hiện thông tin về hàm lượng đạm tổng trên nhãn, không công bố hàm lượng đạm axit amin hay đạm amoniac hoặc công bố không trung thực hàm lượng đạm trên nhãn.

Ngoài ra, đối với các cơ sở sản xuất nước mắm sử dụng phụ gia thì việc thể hiện các thông tin về các loại phụ gia đã được sử dụng trong quá trình sản xuất nước mắm cũng chưa minh bạch như: thể hiện không đầy đủ các loại phụ gia sử dụng; chỉ thể hiện mã số ký hiệu phụ gia; thể hiện các nội dung trên nhãn không đúng kích cỡ, vị trí theo qui định nên rất khó nhận biết.

Điều này dẫn đến việc người tiêu dùng khó có khả năng nhận biết đầy đủ thông tin cần thiết về loại nước nắm, loại chất lượng, các loại phụ gia đã được sử dụng trong quá trình sản xuất để lựa chọn loại nước mắm phù hợp với nhu cầu sử dụng.

Do vậy, để phù hợp hơn với thực tiễn sản xuất kinh doanh nước mắm hiện nay, đồng thời, đảm bảo thông tin rõ ràng, minh bạch đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng và thuận lợi cho cơ quan quản lý, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tổ chức nghiên cứu, rà soát toàn diện Tiêu chuẩn Việt Nam về nước mắm (TCVN 5107:2003) để làm rõ hơn khái niệm nước mắm truyền thống; quy định cụ thể hơn về phân loại, ghi nhãn và các nội dung khác để đảm bảo phù hợp, hài hòa với Tiêu chuẩn quốc tế CODEX STAN 302-2011 “Standard for fish sauce”.

Bảo Hân