Huy động nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội giai đoạn 2014 đến 30/6/2023
Báo cáo kết quả giám sát tình hình huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn tín dụng chính sách được Ban Kinh tế Trung ương cho thấy: Sau gần 9 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW và hơn 2 năm thực hiện Kết luận số 06-KL/TW, nguồn vốn tín dụng chính sách có sự tăng trưởng vượt bậc, tốc độ tăng trưởng ổn định qua các năm, năm sau cao hơn năm trước.
Đến 30/6/2023, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội tại NHCSXH đạt 318.278 tỷ đồng, tăng 183.605 tỷ đồng và gấp 2,36 lần so với cuối năm 2014, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 10,4%.
Cụ thể nguồn vốn được cấp từ NSTW (gồm vốn điều lệ, vốn thực hiện một số chương trình tín dụng, cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý) được bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn. Đến 30/6/2023, tổng nguồn vốn được cấp từ NSTW là 42.597 tỷ đồng, chiếm 13,5% tổng nguồn vốn, tăng 17.527 tỷ đồng và gấp gần 1,7 lần so với năm 2014.
Nguồn vốn từ NSĐP ủy thác qua NHCSXH được quan tâm cân đối, ưu tiên bố trí ngày càng tăng, đến 30/6/2023, đạt 34.527 tỷ đồng, chiếm 10,8%/tổng nguồn vốn, tăng 30.719 tỷ đồng và gấp gần 9,1 lần so với năm 2014. Hiện nay 100% đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện đã ủy thác vốn NSĐP sang NHCSXH. Nhiều tỉnh, tỷ trọng vốn ủy thác NSĐP cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Tại một số địa phương, cấp xã cũng bố trí nguồn vốn ủy thác cho NHCSXH.
Nguồn vốn do Ngân hàng Chính sách xã hội huy động (phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; nhận tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng Nhà nước; nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân trên thị trường) được duy trì và ngày càng tăng, đến 30/6/2023 đạt 218.298 tỷ đồng, tăng 153.145 tỷ đồng và gấp 3,35 lần so với năm 2014, chiếm 68,5% tổng nguồn vốn. Trong đó nguồn tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng tại NHCSXH là 117.378 tỷ đồng, chiếm 36,8%/tổng nguồn vốn; nguồn phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh đạt 55.743 tỷ đồng, chiếm 17,5%/tổng nguồn vốn; nguồn nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân trên thị trường đạt 45.177 tỷ đồng, chiếm 14,2%/tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn khác và các quỹ (nguồn vốn có tính chất từ thiện thông qua cuộc vận động vì người nghèo và các nguồn vốn hợp pháp khác) đến ngày 30/6/2023 đạt 13.500 tỷ đồng, tăng 3.171 tỷ đồng và gấp 1,31 lần so với năm 2014.
Cho vay đúng mục đích, trả nợ đúng hạn
Đề cập tình hình sử dụng vốn tín dụng chính sách của người vay và hiệu quả sử dụng vốn tín dụng chính sách, báo cáo của Ban Kinh tế Trung ương đánh giá: Nhìn chung, vốn tín dụng chính sách đã được người vay sử dụng đúng mục đích, trả nợ đúng hạn, đem lại hiệu quả kinh tế.
Tính đến 30/6/2023, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 304.431 tỷ đồng, tăng 174.975 tỷ đồng so với cuối năm 2014, với hơn 6,6 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt khoảng 10%. Tổng doanh số cho vay đạt 605.167 tỷ đồng, với hơn 18.614 nghìn lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn. Tổng doanh số thu nợ đạt 428.822 tỷ đồng, bằng 71% doanh số cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh chiếm 0,62%/tổng dư nợ, trong đó nợ quá hạn chiếm 0,17%. Tại nhiều địa phương, số xã không có nợ quá hạn chiếm tỷ lệ cao.
Dư nợ tín dụng chính sách xã hội tập trung chủ yếu vào 8 chương trình lớn, chiếm trên 96%/tổng dư nợ, gồm: Chương trình cho vay hộ nghèo, Chương trình cho vay hộ cận nghèo; Chương trình cho vay hộ mới thoát nghèo; Chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương trình cho vay hộ gia đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn; Chương trình cho vay giải quyết việc làm”; Chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP và Nghị định số 49/2021/NĐ-CP; Chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn”.
Theo Ban Kinh tế Trung ương, vốn tín dụng chính sách xã hội được đầu tư đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước, trong đó tập trung ưu tiên đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, huyện đảo, xã đảo, vùng bãi ngang ven biển với 18,6 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách được tiếp cận nguồn vốn vay từ NHCSXH; giúp hơn 2,8 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; góp phần thu hút, tạo việc làm cho hơn 3,3 triệu lao động, trong đó gần 42 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp hơn 514 nghìn học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng trên 11,5 triệu công trình nước sạch, công trình vệ sinh; xây dựng hơn 181 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo và đối tượng chính sách.