Theo đó, công ty đưa ra ý tưởng dựa trên việc các máy chủ liên tục thu thập dữ liệu vị trí chiếc xe, để đưa ra dự đoán hướng đi của phương tiện trong khoảng 10 giây tiếp theo.
Các dự đoán được phản hồi lại chiếc xe để kiểm soát tốc độ và hướng đi trong trường hợp kết nối dữ liệu bị gián đoạn. Nếu bị mất kết nối trong thời gian dài hơn, phương tiện sẽ tự động giảm tốc và được điều hướng giới hạn thông qua một số cảm biến tích hợp trên xe.
Càng nhiều dữ liệu hệ thống thu thập thì các dự đoán càng tốt hơn. Subaru cũng đang thuyết phục nhiều nhà sản xuất ô tô khác cùng tham gia chương trình này thông qua thoả thuận cấp phép.
Thương hiệu xe Nhật Bản cũng đang thử nghiệm một phiên bản trên đường dành cho phương tiện hỗ trợ 4G.
Hiện xe tự hành đang là lĩnh vực cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà sản xuất ô tô toàn cầu. Tesla có tính năng Autopilot và đang thử nghiệm phần mềm tự lái hoàn toàn (Full Self-Driving), cho phép phương tiện chuyển làn và đỗ xe tự động. Tuy nhiên, CEO Elon Musk cho biết, công ty sẽ khó có thể nhận được giấy phép hoạt động cho xe ô tô không cần người ngồi sau tay lái trong năm nay.
Mặc dù phương tiện tự lái vẫn còn chưa phổ biến, nhưng khi công nghệ tự hành phát triển, nguy cơ mất kết nối dữ liệu sẽ tăng lên. Ở chế độ tự lái cấp độ 3/5, phương tiện có thể thực hiện nhiều thao tác mà không cần người giám sát vô lăng trong điều kiện bình thường.
Vào tháng 7 vừa qua, việc nhà cung cấp dịch vụ viễn thông KDDI của Nhật bị gián đoạn mạng không dây kéo dài trong 1 ngày, đã ảnh hưởng tới những chiếc ô tô kết nối của Toyota và một số thương hiệu xe khác.
Trong khi đó, Honda Motor cùng các hãng khác đang tìm cách đề phòng nguy cơ này bằng công nghệ sử dụng kết nối dữ liệu dự phòng, giải pháp sẽ làm tăng thêm chi phí.
Thế Vinh (Theo NikkeiAsia)