Về bản chất, đói nghèo thường đồng nghĩa với việc bị khước từ các quyền cơ bản của con người, người nghèo bị đẩy ra lề xã hội nhiều khi không chỉ là do thu nhập thấp. Có nhiều nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng bằng tiền. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp không nghèo vì thu nhập mà lại nghèo do khó tiếp cận được các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục, thông tin…
Trước đây, Việt Nam đo lường và đánh giá nghèo chủ yếu thông qua thu nhập. Nếu thu nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo thì thuộc diện hộ nghèo. Chuẩn nghèo này còn gọi là chuẩn nghèo đơn chiều, do Chính phủ quy định. Với chuẩn đó, nhiều hộ thoát nghèo nhưng mức thu nhập vẫn nằm ở cận chuẩn nghèo, nên tỷ lệ tái nghèo cao.
Những năm gần đây, trên cơ sở phương pháp luận đo lường nghèo đa chiều, nhiều nước đã đưa ra chuẩn nghèo đa chiều để đánh giá toàn diện hộ nghèo, tiến tới bỏ khái niệm hộ cận nghèo. Chuẩn nghèo đa chiều rất chú ý tới việc phải bảo đảm mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin) gắn với mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Với cách tiếp cận chuẩn nghèo đó, ngày 27/1/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/CP quy định chuẩn nghèo đa chiều cho phù hợp với tình hình xóa đói nghèo của Việt Nam trong giai đoạn 2021-2025. Tuy nhiên, năm 2021 vẫn tiếp tục thực hiện theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020 (quy định tại Quyết định số 59/TTg ngày 19/11/2015). Nhưng từ ngày 1/1/2022 đến 31/12/2025 thì phải thực hiện chuẩn nghèo mới với mức thu nhập cao hơn và chú ý đến nhiều chiều hơn.
Thí dụ, nâng tiêu chí về thu nhập, khu vực nông thôn lên 1,5 triệu đồng/người/tháng, khu vực thành thị 2,0 triệu đồng/người/tháng (mức chuẩn cũ của khu vực nông thôn là 700 nghìn đồng/người/tháng, khu vực thành thị 900 nghìn đồng /người/tháng). Tăng chiều tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản: từ 5 chiều lên 6 chiều, bổ sung chiều thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản về việc làm; sửa đổi, bổ sung các chỉ số đo lường các chiều thiếu hụt về y tế, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo, nhà ở, nước sạch, vệ sinh, thông tin và người phụ thuộc trong hộ gia đình…
Theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2022-2025, ước tính tại thời điểm tháng 1/2022, cả nước có khoảng 14% hộ dân cư có thu nhập dưới mức sống tối thiểu, tương ứng với khoảng 3,8 triệu hộ; trong đó, tỷ lệ hộ nghèo khoảng 8% (2,2 triệu hộ), tỷ lệ hộ cận nghèo khoảng 6% (1,6 triệu hộ). Dựa trên ba phương diện như vậy, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 được thiết kế với 7 dự án có tổng nguồn lực tối thiểu 75.000 tỷ đồng để tập trung thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo 1-1,5%/năm; giảm ít nhất ½ tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo.
Trong số đó có 3 dự án tập trung giải quyết vùng “lõi nghèo”, gồm: hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ dân sinh, sản xuất, lưu thông hàng hóa như hạ tầng giao thông, điện, dịch vụ viễn thông; phát triển giáo dục nghề nghiệp và hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Các dự án còn lại thực hiện trên phạm vi cả nước, trong đó ưu tiên hỗ trợ trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Triển khai các mô hình, dự án giảm nghèo vùng lõi nghèo nhằm phát triển các vùng sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt; tạo sinh kế, việc làm, thu nhập cho người dân. Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, kết nối với thị trường, với doanh nghiệp tiêu thụ/bao tiêu sản phẩm đầu ra; ứng phó với dịch bệnh, biến đổi khí hậu. Tập trung hỗ trợ người nghèo sinh sống trên địa bàn nghèo, xóa nhà tạm, nhà dột nát. Ngoài ra, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025 tập trung hỗ trợ người dân sinh sống trên địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; hỗ trợ đầu tư xã, thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Điều này cũng góp phần cho việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn này tốt hơn.
Đình Thành, Bình Minh, Lệ Yên