Chiều 31/10, Quốc hội thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế - xã hội. Một trong những vấn đề nhiều đại biểu và cử tri quan tâm khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương từ 1/7/2024 là tác động của việc tăng lương đến giá cả, nhất là tình trạng “lương chưa tăng thì giá cả đã tăng”.

Vì vậy, không ít người lo ngại, tăng lương mà không kèm theo những biện pháp kiềm chế lạm phát thì ý nghĩa của việc tăng lương sẽ không được bảo đảm. 

(Bộ trưởng Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà nói về lộ trình cải cách tiền lương từ 1/7/2024 tại phiên thảo luận tổ về kinh tế-xã hội).

Cải cách tiền lương tác động đến lạm phát không nhiều

Đánh giá tác động khi thực hiện lộ trình cải cách tiền lương, Chính phủ khẳng định, việc cải cách tiền lương theo cơ cấu 70% lương cơ bản, 30% phụ cấp tác động đến lạm phát dự kiến không nhiều, kể cả khi thu nhập người lao động khu vực công tăng.

Theo phân tích của Chính phủ, thực chất, việc dành thêm nguồn lực từ ngân sách nhà nước để chi cải cách tiền lương sẽ chỉ làm thay đổi cơ cấu chi ngân sách nhà nước, tức là tăng chi thường xuyên và có thể sẽ làm giảm chi các hạng mục khác. Việc này không làm tăng quy mô chi ngân sách một cách bất thường. Do đó dự kiến tác động đến lạm phát không đáng kể. 

lamphat.png

Tuy nhiên, Chính phủ cũng nhìn nhận tác động gián tiếp, mang tính kỳ vọng, tạo tâm lý tăng giá các mặt hàng tiêu dùng là có thể có nhưng rất khó lượng hóa.

Theo tính toán của Bộ KH-ĐT, việc tăng lương theo lộ trình cải cách tiền lương tác động đến lạm phát tăng thêm khoảng 0,21%/năm.

Do khi cải cách tiền lương, tỷ lệ chi tiêu Chính phủ/GDP tăng thêm. Với giả định các yếu tố khác không thay đổi thì cũng làm GDP tăng thêm 0,73%/năm. 

Bộ KH-ĐT cũng đưa ra một số giả định ước tính tăng trưởng GDP năm 2023 tăng từ 5,0% - 5,5%, các năm 2024 - 2026 tăng lần lượt là 6,5% - 6,5% - 7,0% (trung bình giai đoạn 2024 -2026 là 6,7%). 

Khi thực hiện cải cách tiền lương dự báo tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2024 - 2026 sẽ đạt khoảng 6,8% (năm 2024: 6,8%; năm 2025: 6,7% và năm 2026: 7,0%). CPI bình quân giai đoạn 2024-2026 tăng khoảng 0,7%/năm.

Sẵn sàng các phương án bình ổn thị trường khi có những cú sốc bất ngờ

Giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ liên quan đến nội dung này, Bộ trưởng KH-ĐT Nguyễn Chí Dũng cho biết các yếu tố tác động đến lạm phát năm 2024 có yếu tố thuận lợi và cả thách thức.

Với yếu tố thuận lợi, lạm phát quốc tế có dấu hiệu hạ nhiệt và dự báo chậm lại, qua đó hạn chế áp lực "lạm phát nhập khẩu” đối với chi phí sinh hoạt và sản xuất ở Việt Nam. 

Bên cạnh đó, niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào sự kiên định của Chính phủ trong ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát được củng cố sau nhiều năm hoàn thành tốt mục tiêu lạm phát. Chính phủ kỳ vọng lạm phát được neo giữ tốt.

nguyenchidung 01.jpeg
Bộ trưởng KH-ĐT Nguyễn Chí Dũng

Về yếu tố thách thức, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, áp lực lớn từ việc điều chỉnh giá các mặt hàng nhà nước quản lý (điện, giáo dục, y tế) sau gần 4 năm trì hoãn hoặc chưa thực hiện hết trong năm 2023, sẽ được tiếp tục điều chỉnh trong năm 2024.

Cạnh đó, giá lương thực, thực phẩm trong nước chịu áp lực tăng theo xu hướng giá thế giới trong bối cảnh rủi ro khủng hoảng lương thực toàn cầu.

Giá các mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu biến động khó lường và dự kiến trong năm 2024 tiếp tục tăng từ nhiều yếu tố. Kinh tế phục hồi và tăng trưởng có thể tạo sức ép lên lạm phát.

Ngoài ra còn có rủi ro thiên tai, dịch bệnh, thời tiết bất lợi; việc chấm dứt một số chính sách hỗ trợ giá của Chính phủ sau năm 2023 (như giảm thuế VAT, giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu) khiến giá hàng hóa có thể tăng trở lại trong năm 2024.

Bộ trưởng cũng phân tích chỉ tiêu tốc độ tăng chỉ số tiêu dùng bình quân năm 2024 khoảng 4-4,5% dựa trên các cơ sở diễn biến kinh tế, thị trường trong, ngoài nước nhanh, bất định, tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát năm 2023 vẫn dai dẳng, đòi hỏi chính sách phải linh hoạt thích ứng cao.

Đây là mức lạm phát hợp lý để duy trì trạng thái chính sách tiền tệ hỗ trợ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024 (dự kiến khoảng 6-6,5%), đồng thời đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.

Ngoài ra, mức lạm phát này còn thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc duy trì ổn định lạm phát như các năm trước đây mặc dù áp lực lạm phát gia tăng, từ đó ổn định kỳ vọng lạm phát.

Vì vậy theo Bộ trưởng KH-ĐT, việc kiểm soát lạm phát năm 2024 đan xen thuận lợi và khó khăn, đòi hỏi phải theo dõi sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước. Các chính sách kinh tế vĩ mô phải phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và phản ứng kịp thời trước diễn biến bất lợi làm gia tăng áp lực lạm phát. 

Từ những phân tích trên, Chính phủ đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát.

Cụ thể, Ban chỉ đạo điều hành giá tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành phối hợp chặt chẽ nhằm triển khai chính sách quản lý giá thận trọng, hợp lý và chủ động, bám sát diễn biến thị trường, thường xuyên đánh giá, dự báo để điều chỉnh phù hợp, góp phần đảm bảo kiểm soát lạm phát theo mục tiêu. 

Trong đó, chú trọng việc xây dựng, tính toán liều lượng và thời điểm điều chỉnh giá các mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước quản lý (điện, dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục) phù hợp với mục tiêu kiềm soát lạm phát. 

Ngoài ra, việc thông báo sớm lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng cũng cần được chú trọng để tránh bị động trong phối hợp chính sách.

Chính phủ cũng đặt ra yêu cầu đảm bảo thông suốt hoạt động cung ứng, lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ, nhất là đối với xăng dầu và các mặt hàng chiến lược có khả năng bị ảnh hưởng từ sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu và xung đột căng thẳng địa chính trị Nga-Ucraine khó lường, phức tạp.

Các bộ, ngành triển khai hiệu quả Kế hoạch phát triển KT-XH theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ nhằm thúc đẩy phục hồi tăng trưởng kinh tế trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. 

Cùng với đó là việc tăng cường thông tin truyền thông, ổn định tâm lý người tiêu dùng, ổn định kỳ vọng lạm phát. Đồng thời sẵn sàng các phương án can thiệp, bình ổn thị trường phù hợp, kịp thời khi có những cú sốc bất ngờ xảy ra.