Không chỉ các động thái trên thực địa, mà cả sự cạnh tranh trong các vấn đề pháp lý về Biển Đông cũng đang nóng hổi. Năm ngoái, cả Mỹ và Australia đều chính thức tuyên bố các yêu sách của Bắc Kinh trên Biển Đông là phi pháp. Điều này khiến Bắc Kinh phản ứng mạnh mẽ.
Trong một bài viết được đăng tải trên trang The Maritime Executive, chuyên gia Oriana Skylar Mastro tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli thuộc Đại học Stanford (Mỹ) cho rằng, dù vi phạm trắng trợn luật quốc tế, nhưng Trung Quốc vẫn cố tạo ra vỏ bọc hợp pháp cho các hành vi của mình.
Vỏ bọc này tinh vi ở chỗ, những tuyên bố chủ quyền đơn phương của Trung Quốc mang tính "sâu rộng" và dàn trải. Năm 2009, Đới Bỉnh Quốc, khi đó còn là quan chức ngoại giao cấp cao, lần đầu tiên gọi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, thuật ngữ thường được dùng cho các vùng lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Dù không nêu mức độ cụ thể, nhưng Trung Quốc đã ngang nhiên sử dụng "đường 9 đoạn" như một công cụ để phân định các yêu sách đơn phương của mình.
Hai nhóm tác chiến tàu sân bay USS Theodore Roosevelt và USS Nimitz trên Biển Đông hôm 9/2. Ảnh: US Indo-Pacific Comman |
Tuyên bố đơn phương của Trung Quốc
Bề ngoài, Trung Quốc dường như đang dựa vào các lập luận "mang tính lịch sử" để củng cố những yêu sách phi pháp của họ trên Biển Đông. Tuy nhiên, nhiều học giả đã liệt kê tỉ mỉ sự đáng ngờ của các lập luận trên. Khái niệm “yêu sách lịch sử” của Trung Quốc không có cơ sở rõ ràng dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Song, theo phân tích của bà Oriana Mastro, việc Trung Quốc lạm dụng và áp dụng sai luật quốc tế đối với Biển Đông còn phức tạp hơn thế, và được chia thành nhiều cấp độ tuần tự.
Thứ nhất, Trung Quốc tuyên bố họ có các quyền giống như các nước được hình thành bởi các quần đảo. Một trong những lợi ích của quy chế dành cho các quốc gia này là vùng nước giữa các đảo thuộc nước nào được xem như vùng nội thủy của nước đó. Tàu thuyền của quốc gia khác sẽ không có quyền đi qua các vùng biển này nếu không được nước sở tại cho phép.
Quy chế về quốc gia quần đảo này mới chỉ được Liên Hợp Quốc thông qua và áp dụng cho 22 nước, và không có tên Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tự ý vẽ đường cơ sở quanh quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, và ngang ngược tuyên bố vùng biển giữa quần đảo là vùng nội thủy của họ. Những động thái tương tự cũng được Trung Quốc ngấm ngầm áp dụng trái phép tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Trung Quốc tự ý tuyên bố chủ quyền đối với vùng 12 hải lý tính từ đường cơ sở tại quần đảo Hoàng Sa, và tự ý cho rằng nước này có toàn quyền ban hành, áp dụng và thực thi luật của mình trong các vùng họ tuyên bố chủ quyền, mà không bị nước ngoài can thiệp. Song theo UNCLOS, tất cả các tàu biển, từ dân sự đến quân sự, đều được hưởng quyền đi lại tự do qua vùng lãnh hải của các quốc gia khác. Hơn nữa, những khu vực được xem như "vùng tiếp giáp" vẫn được tính là một phần của vùng biển quốc tế, và các quốc gia không có quyền hạn chế hoặc thực hiện bất kỳ quyền kiểm soát tự do hàng hải nào vì mục đích an ninh.
Cuối cùng, Trung Quốc tự ý tuyên bố 200 hải lý tính từ phần cuối lãnh hải của nước này là vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), nơi họ có quyền thực hiện các hoạt động quân sự. Mỹ đã lên tiếng khẳng định tự do hàng hải của các tàu thuyền trên biển là một thực tiễn được thiết lập và chấp nhận trên toàn cầu, được ghi trong luật quốc tế. Nói cách khác, các quốc gia không có quyền hạn chế hoặc thực hiện bất kỳ sự kiểm soát tự do hàng hải nào vì mục đích an ninh trong các vùng EEZ. Quan điểm của Mỹ được Australia và một số nước đồng minh ủng hộ.
Theo bà Oriana Mastro, chỉ tính riêng 3 vị trí trong vùng nội thủy, lãnh hải và EEZ, Trung Quốc đã tuyên bố trái phép chủ quyền với khoảng 80% diện tích trên Biển Đông. Không những thế, họ còn củng cố tuyên bố chủ quyền phi pháp của mình khi sử dụng “đường 9 đoạn” cùng những tuyên bố về "vùng nước lịch sử", một quan điểm không có cơ sở trong luật quốc tế.
Vai trò của Mỹ
Chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli cho rằng, Mỹ đã thực hiện từng bước để thách thức những cơ sở pháp lý sai lệch trong các tuyên bố của Trung Quốc. Đây là mục đích chính đằng sau các Chiến dịch vì tự do hàng hải, gọi tắt là FONOPS, để chứng minh bằng hành động rằng Mỹ không chấp nhận quan điểm của Trung Quốc về các vùng biển mà Bắc Kinh đơn phương tuyên bố là vùng nội thủy, lãnh hải, hay vùng đặc quyền kinh tế.
Tuy nhiên việc phá bỏ các tuyên bố phi pháp của Trung Quốc sẽ còn phức tạp hơn các động thái quân sự hay những tuyên bố quyết liệt. Việc Washington còn dè dặt trong việc công nhận UNCLOS đã làm suy yếu nỗ lực chung trong việc kiềm chế Bắc Kinh bằng các công cụ pháp lý. Ngoài ra, Mỹ cũng đã bỏ lỡ cơ hội hỗ trợ Philippines thực thi phán quyết năm 2016 của Tòa pháp lý quốc tế theo hướng có lợi cho mình. Điều đó làm giảm động lực đối với các nước tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông trong việc khiếu nại Bắc Kinh dựa trên các cơ sở pháp lý.
Bà Oriana Mastro nhận định, Mỹ không nên mắc cùng một sai lầm tới 2 lần. Washington cần hỗ trợ các nước khác có thể theo đuổi các hành động pháp lý đối với Bắc Kinh trên Biển Đông. Và trong trường hợp tòa án quốc tế ra phán quyết có lợi cho những nước trên, Mỹ cần có trách nhiệm hàng đầu trong việc thực thi.
Việt Anh
Thông điệp mạnh mẽ của Mỹ về luật hải cảnh Trung Quốc
Chính quyền Tổng thống Joe Biden mới đây đã phản ứng mạnh mẽ về luật mới của Trung Quốc, trong đó cho phép lực lượng hải cảnh nước này bắn tàu nước ngoài ở Biển Đông.
Chính quyền Biden phác họa chiến lược kiềm chế Trung Quốc ở Biển Đông
Ngày 19/2, sau một tháng cầm quyền, chính quyền Biden đã phác họa rõ nét chính sách của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt trong khu vực Biển Đông.