Chuyển đổi số đang được Việt Nam xác định là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng nhất trong giai đoạn phát triển mới. Từ cải cách hành chính, xây dựng chính quyền số, thúc đẩy kinh tế số đến bảo đảm quốc phòng - an ninh trong không gian mạng, tất cả đều dựa trên một điều kiện tiên quyết mang tính nền tảng: hạ tầng số đủ mạnh, đủ rộng và đủ đồng bộ. Trong đó, mạng viễn thông băng rộng, đặc biệt là 5G, cùng với hệ thống trung tâm dữ liệu và hạ tầng điện toán, đang trở thành “xương sống” của toàn bộ tiến trình chuyển đổi số quốc gia.

Thực tiễn triển khai cho thấy, chuyển đổi số không thể chỉ dừng ở việc xây dựng các ứng dụng hay nền tảng số, nếu thiếu một nền hạ tầng đủ năng lực để gánh vác lưu lượng dữ liệu ngày càng lớn, yêu cầu kết nối thời gian thực và độ tin cậy cao. Khi hạ tầng yếu, mọi nỗ lực số hóa sẽ bị “kẹt” ở mức thí điểm, manh mún và khó nhân rộng. Ngược lại, khi hạ tầng được đầu tư đi trước một bước, chuyển đổi số mới có không gian để lan tỏa, thẩm thấu vào từng ngành, từng lĩnh vực và từng cộng đồng dân cư.

Phủ sóng 5G - bước nhảy chiến lược của hạ tầng kết nối quốc gia

Trong bức tranh hạ tầng số, 5G được coi là công nghệ mang tính bản lề, quyết định khả năng bứt phá của nền kinh tế số trong thập niên tới. Không chỉ đơn thuần là nâng cấp tốc độ truy cập, 5G mở ra khả năng kết nối siêu nhanh, độ trễ siêu thấp và khả năng kết nối đồng thời hàng triệu thiết bị, tạo nền tảng cho các ứng dụng đòi hỏi cao như đô thị thông minh, nhà máy thông minh, y tế từ xa, giao thông thông minh và Internet vạn vật.

Theo các nghiên cứu quốc tế, tốc độ mạng tăng 2 lần sẽ đóng góp trực tiếp 0,3% tăng trưởng GDP. Hạ tầng mạng nói chung cũng như 5G nói riêng cũng giống như hạ tầng giao thông, điện, nước. Cần phải được đầu tư đồng bộ, rộng khắp để phát huy được tối đa hiệu quả. Mạng di động cần đảm bảo đúng tính chất "di động", không thể phủ sóng chỉ các đô thị lớn mà thành mạng di động được.

Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cho rằng, phía các doanh nghiệp viễn thông, hạ tầng thì phải được đầu tư trước, rồi kinh doanh sau. Đầu tư 5G rồi kinh doanh làm sao cho hiệu quả là một câu hỏi lớn. Tuy nhiên, 5G đã trở thành xu hướng toàn cầu, nếu không đầu tư 5G chắc chắn sẽ tụt hậu, không còn đường đi tiếp. Viễn thông vẫn phải dựa trên cái gốc là phát triển, kinh doanh hạ tầng, hạ tầng chắc chắn phải được thúc đẩy đầu tư trước.  

Vì vậy, các cơ chế chính sách của Nhà nước đưa ra định hướng và thúc đẩy các doanh nghiệp triển khai 5G trên toàn quốc để đem lại trải nghiệm hoàn chỉnh với người dùng, cũng như mở ra không gian mới cho doanh nghiệp viễn thông trong thời gian sắp tới. Nếu không có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, họ có thể kéo dài thời gian đầu tư đến 2-3 năm, nhưng có chính sách, định hướng phù hợp thì các doanh nghiệp viễn thông sẽ tăng tốc và rút ngắn thời gian đầu tư xuống còn 1 năm sẽ phủ 5G cơ bản toàn quốc.

Theo Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Đức Long, để thúc đẩy phát triển nhanh mạng 5G, Bộ đã yêu cầu các doanh nghiệp viễn thông phấn đấu trong năm 2025 triển khai số trạm 5G đạt tối thiểu bằng 50% số trạm 4G. Đây là một mục tiêu rất cao nếu đặt trong bối cảnh đầu tư hạ tầng viễn thông vốn đòi hỏi chi phí lớn và thời gian thu hồi dài. Tuy nhiên, mục tiêu này phản ánh rõ quyết tâm của Chính phủ trong việc coi 5G là cấu phần cốt lõi của hạ tầng số quốc gia, cần được ưu tiên đầu tư đi trước.

Dự kiến đến hết năm 2025, Việt Nam phải đạt khoảng 68.457 trạm 5G, tương đương 57,5% số trạm 4G hiện có, qua đó phủ sóng 5G tới 90% dân số và tiến tới mục tiêu phủ sóng 99% dân số vào năm 2030. Đây không chỉ là các con số kỹ thuật, mà là những chỉ dấu quan trọng cho thấy mức độ sẵn sàng của hạ tầng số trong việc phục vụ chuyển đổi số toàn diện.

Bộ KH&CN nhấn mạnh, việc các doanh nghiệp triển khai nhanh 5G trên toàn quốc chính là sự cụ thể hóa các mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Để tạo động lực thực chất, Nhà nước đã ban hành Nghị quyết 193/2025/QH15 và Nghị định 88/2025/NĐ-CP, trong đó có chính sách hỗ trợ tới 15% chi phí đầu tư thiết bị cho các doanh nghiệp viễn thông triển khai tối thiểu 20.000 trạm 5G được nghiệm thu đưa vào sử dụng trong năm 2025. Hiện đã có hai nhà mạng đăng ký và nhận được hỗ trợ theo cơ chế này.

Theo đánh giá của Bộ KH&CN, nếu không có chính sách khuyến khích đủ mạnh, các doanh nghiệp có thể kéo dài thời gian đầu tư 5G thêm 2-3 năm để giảm áp lực tài chính. Ngược lại, khi có định hướng và hỗ trợ phù hợp, tiến độ triển khai có thể được rút ngắn đáng kể, thậm chí chỉ trong vòng một năm đã có thể phủ sóng 5G cơ bản trên toàn quốc. Chính sách hỗ trợ 15% chi phí đầu tư thiết bị vì vậy không chỉ mang ý nghĩa tài chính, mà còn là sự chia sẻ rủi ro và đồng hành của Nhà nước với doanh nghiệp trong một nhiệm vụ mang tính chiến lược quốc gia.

Doanh nghiệp viễn thông tăng tốc: 5G phải đi trước một bước

Trong làn sóng tăng tốc triển khai 5G, các doanh nghiệp viễn thông lớn đang đóng vai trò chủ lực. Mới đây, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) đã thông báo cán mốc lắp đặt mới 20.000 trạm 5G trong năm 2025, vượt tiến độ cam kết với Chính phủ hơn ba tuần. Dự kiến đến ngày 31/12/2025, tổng số trạm 5G của Viettel trên toàn mạng sẽ đạt khoảng 30.000 trạm, phủ sóng tới 90% diện tích ngoài trời trên toàn quốc.

image001.jpg
Viettel thông báo cán mốc lắp đặt mới 20.000 trạm 5G trong năm 2025. Ảnh: VT

Từ nay đến hết năm 2025, Viettel đặt mục tiêu lắp đặt mới 23.500 trạm 5G, gấp gần bốn lần số trạm triển khai trong năm 2024. Với quy mô này, Viettel sẽ sở hữu mạng lưới 5G lớn nhất tại Việt Nam, không chỉ phủ sóng rộng từ thành thị đến nông thôn mà còn đạt tỷ lệ phủ trong nhà khoảng 70%. Điều này cho thấy, 5G đang được triển khai theo đúng tinh thần “mạng di động phải đúng nghĩa di động”, không chỉ tập trung ở các đô thị lớn mà phải lan tỏa đến mọi khu vực dân cư.

Theo Trung tướng Tào Đức Thắng - Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel, Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã tạo động lực rất lớn để doanh nghiệp dồn toàn lực triển khai hạ tầng 5G. Viettel xác định đây không chỉ là nhiệm vụ kinh doanh, mà còn là trách nhiệm của một doanh nghiệp chủ lực trong việc xây dựng nền tảng công nghệ phục vụ Chính phủ, doanh nghiệp và người dân chuyển đổi số hiệu quả.

Không chỉ mở rộng về vùng phủ, 5G của Viettel còn có lợi thế vượt trội về công nghệ. Viettel hiện là doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam triển khai mạng 5G SA - mô hình 5G độc lập, trong đó toàn bộ các thành phần từ mạng lõi đến thiết bị vô tuyến đều là thế hệ 5G. Công nghệ này cho phép đạt tốc độ lý thuyết lên tới 10 Gbps, trong điều kiện sử dụng thực tế cao hơn 4G từ 15 đến 20 lần, đồng thời đáp ứng các yêu cầu khắt khe về độ trễ và độ tin cậy.

Những khả năng mà 5G SA mang lại như cắt lát mạng, mạng riêng bảo mật cao cho quốc phòng - an ninh, y tế từ xa với độ trễ dưới 1 ms hay nhà máy thông minh kết nối hàng triệu thiết bị IoT trong một km², đang mở ra không gian ứng dụng hoàn toàn mới cho chuyển đổi số. Đáng chú ý, Viettel cũng đã tích hợp hệ sinh thái 5G do chính mình nghiên cứu và sản xuất, từ trạm phát sóng gNodeB, mạng lõi 5GC đến hệ thống tính cước vOCS 4.0, vào hạ tầng chung trên toàn quốc, qua đó vừa nâng cao năng lực tự chủ công nghệ, vừa giảm phụ thuộc vào nhà cung cấp nước ngoài.

5G - yếu tố hình thành “bộ não số” quốc gia

Cùng với 5G, việc phát triển hệ thống trung tâm dữ liệu và trung tâm điều hành thông minh đang tạo nên lớp hạ tầng thứ hai của chuyển đổi số. Khi lưu lượng dữ liệu tăng mạnh, yêu cầu xử lý thời gian thực và bảo đảm an toàn thông tin ngày càng cao, các trung tâm dữ liệu đạt chuẩn quốc tế trở thành điều kiện bắt buộc để bảo đảm chủ quyền dữ liệu và năng lực vận hành của các nền tảng số.

Nhiều địa phương đã đầu tư trung tâm điều hành thông minh như một “bộ não số”, tích hợp dữ liệu từ giao thông, y tế, giáo dục, môi trường và an ninh trật tự. Khi được vận hành trên nền hạ tầng mạng tốc độ cao như 5G và kết nối với các trung tâm dữ liệu đủ năng lực, những trung tâm này giúp lãnh đạo địa phương chuyển từ điều hành dựa trên báo cáo thủ công sang điều hành dựa trên dữ liệu thời gian thực, nâng cao hiệu quả quản lý và tính minh bạch.

Tuy nhiên, bài học thực tế cũng cho thấy, nếu hạ tầng mạng không đủ mạnh hoặc triển khai thiếu đồng bộ, các trung tâm điều hành thông minh rất dễ rơi vào tình trạng “có hình mà chưa có hồn”. Chính vì vậy, việc coi 5G và trung tâm dữ liệu là hai cấu phần không thể tách rời của hạ tầng số đang trở thành cách tiếp cận chủ đạo trong chiến lược chuyển đổi số quốc gia.

Khi 5G mở ra sinh kế mới cho vùng sâu, vùng xa

Một trong những ý nghĩa xã hội quan trọng nhất của việc phát triển hạ tầng 5G là khả năng thu hẹp khoảng cách số giữa thành thị và nông thôn. Thực tế đã cho thấy, khi có sóng 5G và internet tốc độ cao, nhiều bà con người dân tộc ở vùng sâu, vùng xa đã mạnh dạn khai thác các nền tảng số để phát triển du lịch cộng đồng, livestream bán nông sản, quảng bá đặc sản địa phương ra thị trường rộng lớn hơn.

Tại xã Bình Lư, Lai Châu nhiều bà con dân tộc đã biết học livestream trên mạng 5G để bán hàng nông sản như mật ong, khoai sâm, miến dong trên tiktok. Hay tại xã Sin Suối Hồ của Lai Châu bà con đã sử dụng mạng 5G để quảng bá du lịch cộng đồng tại Việt Nam và vươn ra toàn cầu. Hạ tầng số 5G đang giúp nhiều hộ gia đình phát triển kinh tế theo phương thức mới hiệu quả hơn.

5G không chỉ mang lại tốc độ, mà còn mang lại cơ hội. Nhờ kết nối ổn định, người dân có thể tiếp cận trực tiếp người tiêu dùng, giảm khâu trung gian, nâng cao giá trị sản phẩm và cải thiện thu nhập. Đây là minh chứng rõ ràng cho thấy, hạ tầng số nếu được đầu tư đúng hướng sẽ trở thành công cụ phát triển bao trùm, góp phần giảm nghèo bền vững và giữ chân người trẻ ở lại địa phương khởi nghiệp.

Trong dài hạn, việc ưu tiên đầu tư hạ tầng số, kết hợp với cơ chế xã hội hóa và thu hút đầu tư tư nhân, sẽ quyết định khả năng Việt Nam tận dụng được làn sóng chuyển đổi số. Như nhận định của Bộ KH&CN, hạ tầng mạng nói chung và 5G nói riêng cũng giống như giao thông, điện, nước - phải được đầu tư đi trước, đồng bộ và rộng khắp thì mới phát huy được tối đa hiệu quả. Chuyển đổi số chỉ thực sự thành công khi hạ tầng số trở thành nền tảng phổ cập, để mọi doanh nghiệp và người dân đều có thể khai thác, sáng tạo và hưởng lợi.