Trong bối cảnh thị trường nông sản biến động nhanh, yêu cầu dự báo chính xác và thông tin kịp thời trở thành “chìa khóa” của sản xuất nông nghiệp.

Tại Hải Phòng, việc triển khai Đề án đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập, phân tích, dự báo thị trường nông sản đang mở ra cách tiếp cận mới: lấy dữ liệu làm nền tảng, lấy công nghệ làm công cụ điều hành.

Theo định hướng của Đề án, hệ thống dữ liệu tập trung của ngành nông nghiệp được xây dựng nhằm chuẩn hóa thông tin từ sản xuất đến tiêu thụ. Các công cụ số phục vụ thu thập dữ liệu, phân tích xu hướng, dự báo cung – cầu đối với nhóm sản phẩm chủ lực và sản phẩm có tiềm năng quy mô lớn được hình thành. Đây là bước chuyển quan trọng, giúp quản lý nhà nước có căn cứ khoa học, đồng thời hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp đưa ra quyết định sản xuất phù hợp.

Thực tế triển khai tại Hải Phòng cho thấy công nghệ đã đi thẳng vào ruộng đồng. Nhiều mô hình sản xuất áp dụng tưới tự động, cảm biến theo dõi độ ẩm, nhiệt độ, dinh dưỡng đất; nhật ký số và mã QR truy xuất nguồn gốc được sử dụng đồng bộ. Dữ liệu sản xuất được cập nhật theo thời gian thực, tạo dòng thông tin liên thông từ cánh đồng đến thị trường, góp phần hình thành nền nông nghiệp thông minh.

Tại vùng trồng hành, tỏi, sự thay đổi diễn ra rõ rệt. Hệ thống tưới và giám sát tự động giúp kiểm soát chặt chẽ từng công đoạn, giảm chi phí nhân công, hạn chế rủi ro sâu bệnh. Nhiều hộ đạt thu nhập 40–50 triệu đồng mỗi sào mỗi vụ; có gia đình thu về hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ năng suất ổn định và chất lượng đồng đều. Quan trọng hơn, dữ liệu sản xuất được kết nối với nền tảng quảng bá điện tử, giúp sản phẩm tiêu thụ nhanh, giảm áp lực đầu ra.

Gia đình anh Nguyễn Diêm, xã Nam An Phụ, là một ví dụ. Trước đây, mùa vụ cao điểm đòi hỏi 2–3 người mới đủ nước tưới cho ruộng hành, tỏi. Sau khi đầu tư hệ thống tưới phun sương, té nước tự động, một người có thể đảm đương toàn bộ quy trình tưới, bón, chăm sóc. Thời gian được giải phóng, chi phí giảm, cây trồng phát triển đồng đều hơn. Những con số thu nhập vì thế phản ánh rõ hiệu quả của chuyển đổi công nghệ.

W-Hai Phong.png
Hệ thống tưới phun sương, té nước tự động của một hộ dân ở Hải Phòng.

Điểm đáng chú ý là công nghệ không dừng ở sản xuất. Nhiều hộ chủ động cài đặt lịch tưới, lắp cảm biến theo dõi điều kiện sinh trưởng, đồng thời đưa sản phẩm lên các kênh số để tiếp cận người tiêu dùng. Chuỗi giá trị được kéo dài nhờ thông tin minh bạch, giúp thị trường phản hồi nhanh hơn với sản xuất. Tình trạng tồn đọng hàng hóa giảm rõ rệt, niềm tin của đối tác và người tiêu dùng được củng cố.

Ở góc độ quản lý, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng xác định giai đoạn 2025–2030 là thời kỳ tăng tốc phát triển nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất theo chuỗi giá trị. Dữ liệu lớn, phân tích dự báo và kỹ năng số trở thành trụ cột mới. Thành phố tập trung mở rộng mô hình cánh đồng công nghệ đối với cây trồng chủ lực, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ năng số cho nông dân, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp.

Song hành với đó là chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư hình thành vùng sản xuất lớn, tích hợp cơ giới hóa và số hóa, gắn với nông nghiệp sinh thái. Các giải pháp kết nối tiêu thụ, mở rộng thị trường, hướng tới xuất khẩu được triển khai trên nền tảng thông tin thống nhất, giảm độ trễ trong dự báo và điều hành.

Mục tiêu đến năm 2030, 80% diện tích vùng sản xuất hàng hóa có mã số vùng trồng, vùng nuôi; hình thành tối thiểu 10 cụm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Điều này sẽ lan tỏa mô hình sản xuất thông minh, thân thiện môi trường, tạo lực kéo cho kinh tế nông thôn.