Đồng chí Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10-10-1911, tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc (nay là xã Nam Vân, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định) trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Đồng chí được kết nạp vào Đảng khi mới 18 tuổi. Trong thời gian hoạt động cách mạng, đồng chí tỏ rõ là một nhà lãnh đạo xuất sắc, giàu tài năng ở nhiều mặt, đặc biệt là trên các lĩnh vực, chính trị, quân sự, ngoại giao... Đồng chí mất ngày 13-10-1990, tại Hà Nội.
Ảnh chụp lại từ tư liệu |
Tại Hội thảo Kỷ niệm 110 năm ngày sinh của đồng chí Lê Đức Thọ (10/10/1911 - 10/10/2021) hôm 7/10 vừa qua, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng đã điểm lại cuộc đời cách mạng sôi nổi của đồng chí Lê Đức Thọ từ vai trò người đảng viên lớp đầu tiên của Đảng đến nhà lãnh đạo tài năng của Đảng, cách mạng Việt Nam.
Ông Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh 79 năm tuổi đời, 64 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Lê Đức Thọ là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng.
Trọn cuộc đời, đồng chí luôn hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, không ngừng học tập, rèn luyện, trung thành tuyệt đối với lý tưởng và con đường cách mạng đã chọn; nêu cao khí tiết của người cộng sản, không khuất phục trước kẻ thù tàn bạo, nêu gương sáng về đức hy sinh, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Đồng chí là người đã thấm nhuần và thực hành tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trở thành người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhiều đóng góp trong tổ chức xây dựng Đảng
Đồng chí Lê Đức Thọ có nhiều đóng góp trong công tác tổ chức xây dựng Đảng. Theo đó, đồng chí Lê Đức Thọ luôn quan tâm gây dựng tổ chức cơ sở Đảng ngay từ giai đoạn Đảng mới ra đời cho đến các cao trào cách mạng, đấu tranh giải phóng, thống nhất và xây dựng, đổi mới đất nước. Đồng chí Lê Đức Thọ coi đây là hạt nhân chính trị ở cơ sở, gắn với nâng cao chất lượng đảng viên.
Sau khi đất nước thống nhất (30-4-1975), đồng chí được phân công làm Phó ban đại diện của Đảng và Chính phủ ở miền Nam. Tháng 12-1976, tại Đại hội lần thứ IV của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Giữa năm 1977 đến tháng 1-1979, đồng chí được Bộ Chính trị phân công phụ trách công tác đặc biệt. Năm 1980, đồng chí được cử làm Bí thư Thường trực và phụ trách công tác tổ chức; tháng 10-1980 kiêm Hiệu trưởng Trường Chính trị đặc biệt.
Tại Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và làm Bí thư Thường trực, phụ trách công tác tư tưởng, nội chính, ngoại giao. Năm 1983, đồng chí được chỉ định làm Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng của Đảng. Năm 1986, đồng chí làm Trưởng Tiểu ban nhân sự Đại hội lần thứ VI của Đảng và tại Đại hội (tháng 12-1986), đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Là người gắn bó sâu sắc, thời gian dài, đồng chí Lê Đức Thọ đã có những công lao to lớn đối với công tác tổ chức, xây dựng Đảng. Nhiều năm đảm nhiệm các cương vị Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Thường trực Ban Bí thư, phụ trách công tác tổ chức, đồng chí Lê Đức Thọ đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức thành công các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), lần thứ IV (1976), lần thứ V (1986).
Đồng chí đã góp phần quan trọng vào việc phát triển lý luận về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền; củng cố, thống nhất hệ thống tổ chức và tăng cường đoàn kết nội bộ, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đảm bảo giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; phát triển và bảo đảm chất lượng đội ngũ đảng viên, chuẩn bị và bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp cho cả trước mắt và lâu dài...
Những hoạt động và đóng góp của đồng chí Lê Đức Thọ đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý đối với công tác tổ chức, xây dựng Đảng hiện nay.
Nhà ngoại giao chiến lược tài ba
Tên tuổi đồng chí Lê Đức Thọ, cố vấn đặc biệt của phái đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở thành tâm điểm của giới truyền thông thế giới với cuộc đàm phán kéo dài tới hơn 4 năm. Một cuộc đàm phán kéo dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên trong một bài viết về nhà ngoại giao chiến lược tài ba Lê Đức Thọ đã kể lại:
…Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được tiến hành từ tháng 10/1968 đến tháng 1/1973. Cuộc đấu trí gần 5 năm này là cuộc thương lượng kéo dài nhất thế giới để chấm dứt một cuộc chiến tranh. Ở đây có các cuộc thương lượng công khai và bí mật. Thương lượng công khai để đấu lý và tranh thủ dư luận. Thương lượng bí mật để mặc cả, đây mới là thực chất. Phía Mỹ cử Henri Kissinger, một học giả kỳ cựu và là một trong những khối óc (think-tank) lớn nhất của nước Mỹ thời bấy giờ, dẫn đầu đoàn Mỹ đàm phán bí mật. Phía ta, Bác Hồ đích thân lựa chọn đồng chí Lê Đức Thọ dẫn đầu đoàn đàm phán.
Trong suốt gần 5 năm đàm phán ở Paris, Lê Đức Thọ được ví như vị tướng ở ngoài biên. Ông thực hiện rất nghiêm túc đường lối chiến lược trong đàm phán mà Bác Hồ đã trực tiếp căn dặn và những chủ trương của Bộ Chính trị đề ra. Nhưng phần đóng góp của cá nhân ông thật là to lớn. Ông đã có sự vận dụng sáng tạo, luôn luôn giành thế chủ động tấn công, buộc đối phương phải đi vào đàm phán theo cách của mình. Đã có lúc Kissinger phải thốt lên: "Tôi có thể làm tốt hơn nếu như đối diện trên bàn đàm phán không phải là ông Lê Đức Thọ", "đàm phán với ông Thọ quả là cân não!".
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/1/1973, cả thế giới ca ngợi tài trí ngoại giao của ông Lê Đức Thọ. Hình ảnh của ông, danh tiếng của ông tràn ngập trên các trang báo lớn của Mỹ, phương Tây và các nước khác. Vì vậy, ngay năm 1973, Ủy ban Giải thưởng Nobel đã quyết định trao Giải Nobel Hòa bình, một trong những giải thưởng danh giá nhất thế giới cho ông. Với bản lĩnh và sự nhạy cảm của mình, ông từ chối nhận giải vì lúc đó Việt Nam chưa thực sự có hòa bình, nhưng thật ra trong thời điểm đó khó có thể nhận Giải Nobel Hòa bình cùng đứng liên danh Lê Đức Thọ - Kissinger vì cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ quá khủng khiếp, tang tóc, đau thương còn hiển hiện khắp nơi trên đất nước…
Theo nguyên bộ trưởng Nguyễn Dy Niên, một người như ông Thọ, không qua một trường lớp ngoại giao nào, có thể nói ngoại giao là nghề tay trái của ông vì sở trường của ông là chính trị, quân sự và tổ chức, nhưng tại sao trong ngoại giao, ông lại thể hiện tài ba đến như vậy, đến kẻ thù cũng phải kính nể ông. Có lẽ trong con người ông đã hội tụ những tố chất:
Đó là nhiệt huyết của một người cách mạng luôn phấn đấu cho độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc. Ở tuổi 20, ông đã tham gia cách mạng, hai lần bị giam cầm trong nhà tù của thực dân Pháp, vào sinh ra tử trong các địa bàn nguy hiểm nhất của cuộc đấu tranh đã hun đúc trong ông ý chí và quyết tâm chiến đấu cho lý tưởng cách mạng dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đó là sự thông minh bẩm sinh kế thừa truyền thống gia đình và quê hương. Nhưng không có sự thông minh nào mà không có sự rèn luyện, tìm tòi, học hỏi, tích lũy và sáng tạo và ông đã tích lũy được kiến thức trong cuộc chiến tranh, trong cuộc sống, trong nhân dân và nhất là sự tiếp cận với trí tuệ của lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, của nhân loại và biến nó thành nguồn trí tuệ của ông.
Đó là một phương pháp khoa học hết sức logic, hệ thống. Có lẽ ông nắm vững ngũ tri (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến hóa). Ông là nhà lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm nên ông biết mình lắm, biết rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của Việt Nam ở chiến trường và những nơi khác.
Biết người, ông tinh tường lắm, ông biết Mỹ đang bế tắc tìm lối ra khỏi vũng lầy chiến tranh, nhưng lại muốn ra đi trong thế mạnh và bảo toàn cho đồng minh của mình. Ông nắm vững thời thế lúc đó, khi phong trào chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam lan rộng ra toàn thế giới và trong lòng nước Mỹ, buộc chính quyền Mỹ phải sớm kết thúc đàm phán với Việt Nam. Đàm phán có lúc rất căng, ông phê phán Mỹ hết sức gay gắt, nhưng ông biết dừng đúng chỗ, đúng lúc.
Khi đàm phán đi vào bế tắc, ngõ cụt, nhất là việc Mỹ đòi quân đội miền Bắc rút khỏi miền Nam như quân đội Mỹ. Đó là điều không thể được. Nhưng ông biết biến hóa phá vỡ bế tắc. Ông đưa ra sáng kiến vấn đề lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam do các bên Việt Nam giải quyết với nhau. Cuối cùng Mỹ không có sự lựa chọn nào khác đành phải chấp nhận phương án đó.
Đó là dũng khí của một chiến sĩ cách mạng kiên cường, của một nhà thương lượng ngoại giao đầy bản lĩnh. Trong suốt quá trình thương lượng, hía Mỹ không ít lần đưa ra những lời đe dọa. Ông Thọ đã không ngần ngại đáp lại: "Chúng tôi đã đánh nhau với các ông 10 năm và cũng đã đàm phán 5 năm rồi. Nay các ông có sẵn sàng mới đi đến giải quyết, không thể dùng đe dọa với chúng tôi được đâu".
Và đúng như vậy, dưới mái đầu bạc trắng như mây, vẫn toát lên những lời nói đanh thép, nhiều lần Kissinger phải cúi mặt xuống nghe ông Thọ nói với những từ ngữ khá nặng nề như lừa dối, ngu xuẩn, tráo trở, lật lọng... Thật là dũng cảm! Không có dũng khí không làm được. Khi nghỉ giải lao, Kissinger hỏi ông Thọ: "Ông có bao giờ phê phán cán bộ mình như phê phán tôi không?". Ông Thọ nói: "Tôi chỉ nói lên tiếng nói của nhân dân tôi thôi. Cán bộ của tôi có quay quắt, lật lọng, tráo trở đâu mà tôi phê phán họ".
Ngũ tri và "dĩ bất biến, ứng vạn biến" là điều mà Bác Hồ luôn căn dặn các nhà ngoại giao Việt Nam. Ở ông Lê Đức Thọ, những điều đó hình như đã nhập tâm, đã nhuần nhuyễn.
Phương Liên