Quyết định 2618/QĐ-BKHCN ban hành ngày 11/9/2025 xác lập danh mục các nền tảng số dùng chung ưu tiên triển khai cho phát triển kinh tế số ngành và đánh dấu bước chuyển quan trọng từ tư duy ứng dụng CNTT theo dự án sang tư duy xây dựng hạ tầng số thống nhất. Các nền tảng số được ưu tiên không chỉ nhằm giải quyết việc thiếu liên thông thông tin mà còn tạo ra cấu trúc dữ liệu chuẩn hóa, bảo đảm sự phát triển đồng bộ giữa các lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, logistics hay khoa học và công nghệ..
Bộ KH&CN đã xây dựng và ban hành danh mục và kế hoạch triển khai 55 nền tảng số dùng chung của ngành, lĩnh vực, vùng; phục vụ để các bộ, ngành, địa phương triển khai xây dựng, hoàn thiện, dùng chung nền tảng số từ Trung ương đến cấp cơ sở (cấp tỉnh và cấp xã nếu có nghiệp vụ đến cấp xã), tránh đầu tư trùng lặp, chồng chéo, lãng phí.

Cụ thể, trong 55 nền tảng số dùng chung, có 13 nền tảng do Bộ Công an làm cơ quan chủ quản: Nền tảng định danh và xác thực điện tử; Cổng dữ liệu quốc gia; Nền tảng điện toán đám mây trong Trung tâm dữ liệu quốc gia; Nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu của Trung tâm dữ liệu quốc gia; Hệ thống thư điện tử phục vụ tiếp nhận thông báo do cơ quan nhà nước gửi đến; Hệ thống quản lý đấu giá tài sản; Sàn dữ liệu; Nền tảng chuỗi khối (blockchain) quốc gia; Trợ lý ảo quốc gia; Trung tâm tính toán hiệu năng cao; Hệ thống từ điển dữ liệu dùng chung quốc gia; Nền tảng SOC quốc gia thế hệ mới; Hệ thống phòng vệ mạng quốc gia.
Cổng Dịch vụ công quốc gia là 1 trong 55 nền tảng trong "Danh mục nền tảng số quốc gia, nền tảng số dùng chung của các ngành, lĩnh vực, vùng" đã được Bộ KH&CN xây dựng và ban hành.
Mười nền tảng số dùng chung do Bộ Tài chính làm cơ quan chủ quản là: Nền tảng quản lý doanh nghiệp quốc gia (Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp); Nền tảng tài chính số quốc gia (Cơ sở dữ liệu tổng hợp về tài chính); Nền tảng quản lý số liệu, báo cáo tài chính của đơn vị hành chính sự nghiệp; Nền tảng thuế điện tử; Hệ thống CNTT thực hiện hải quan số; Cổng thông tin một cửa quốc gia; Nền tảng quản lý dữ liệu thống kê; Nền tảng công khai ngân sách nhà nước; Nền tảng kế toán hành chính, sự nghiệp; Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia…
Từ các ứng dụng rời rạc đến xây dựng nền tảng thống nhất
Trong nhiều năm, chuyển đổi số tại các bộ ngành và địa phương chủ yếu diễn ra theo mô hình manh mún khiến mỗi đơn vị đầu tư các phần mềm và cơ sở dữ liệu riêng mà không chú trọng khả năng chia sẻ, chuẩn hóa và tái sử dụng. Điều này tạo ra ba điểm nghẽn lớn cản trở sự phát triển của kinh tế số ngành. Thứ nhất, chi phí đầu tư và vận hành bị đội lên khi hàng trăm cơ quan và doanh nghiệp cùng làm những hệ thống có chức năng tương tự. Thứ hai, dữ liệu bị phân mảnh khiến việc tổng hợp, phân tích, dự báo và đưa ra chính sách dựa trên dữ liệu gặp nhiều khó khăn. Thứ ba, thiếu các tiêu chuẩn và giao thức kỹ thuật chung khiến doanh nghiệp công nghệ Việt Nam không thể phát triển sản phẩm có khả năng triển khai diện rộng, làm giảm đáng kể động lực đổi mới sáng tạo.
Quyết định 2618/QĐ-BKHCN tạo ra bước ngoặt bằng việc định hướng phát triển các nền tảng số dùng chung dựa trên ba nguyên tắc cơ bản. Một lần đầu tư để sử dụng cho nhiều đơn vị, nhiều ngành và nhiều địa phương. Dữ liệu phải được chuẩn hóa ngay từ khâu thiết kế, bảo đảm có khả năng ghép nối và tái sử dụng ở mọi cấp. Các nền tảng phải được phát triển theo hướng mở để doanh nghiệp công nghệ có thể tham gia xây dựng ứng dụng và dịch vụ nằm trên tầng giá trị cao hơn. Đây là sự chuyển dịch từ tư duy dự án sang tư duy hệ sinh thái, từ đầu tư đơn lẻ sang xây dựng một hạ tầng số thống nhất và lâu dài.
Sự thay đổi tư duy này cũng đưa Việt Nam tiến gần hơn với mô hình của những quốc gia đi đầu trong xây dựng nhà nước số như Estonia, Hàn Quốc hay Singapore, nơi nền tảng dữ liệu thống nhất luôn là điều kiện tiên quyết để hình thành kinh tế số quy mô lớn. Một nền tảng số dùng chung cũng giống như đường điện hay mạng lưới giao thông quốc gia, càng nhiều chủ thể sử dụng thì hiệu quả kinh tế càng tăng theo cấp số nhân.
Nhóm nền tảng số trọng điểm
Quyết định 2618 đưa ra một danh mục nền tảng ưu tiên tương đối toàn diện, bao phủ từ dữ liệu ngành, sản xuất thông minh đến quản trị tiêu chuẩn chất lượng và đổi mới sáng tạo. Mỗi nền tảng đều giải quyết một cấu phần cốt lõi trong hệ sinh thái kinh tế số ngành.
Nhóm đầu tiên là nhóm nền tảng dữ liệu ngành, được xem là hạ tầng thông tin cấp độ gốc. Các nền tảng dữ liệu ngành công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, logistics hay khoa học công nghệ đều được thiết kế theo kiến trúc liên thông, bảo đảm dữ liệu được thu thập và lưu trữ theo chuẩn thống nhất. Khi dữ liệu được tập trung, các cơ quan quản lý có thể theo dõi diễn biến cung cầu theo thời gian thực, còn doanh nghiệp có thể sử dụng dữ liệu để tối ưu kế hoạch sản xuất, hình thành sản phẩm số mới hay ứng dụng AI vào phân tích rủi ro và dự báo thị trường. Đây là điều kiện cần để xây dựng một thị trường dữ liệu quốc gia - nền tảng quan trọng nhất cho sự hình thành của nền kinh tế số bền vững.
Nhóm thứ hai là các nền tảng phục vụ sản xuất thông minh và chuỗi cung ứng. Đây là nhóm nền tảng có tác động trực tiếp tới năng suất lao động, đặc biệt đối với các ngành chế biến chế tạo. Nền tảng giám sát và điều khiển sản xuất dựa trên công nghệ IoT giúp doanh nghiệp theo dõi trạng thái máy móc, sản lượng và chỉ số vận hành theo thời gian thực. Nền tảng quản lý chuỗi cung ứng số cho phép kết nối các nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối và nhà bán lẻ trên cùng một hệ thống, từ đó giảm độ trễ thông tin, tối ưu tồn kho và giảm lãng phí. Nền tảng truy xuất nguồn gốc liên ngành có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu của thị trường quốc tế về minh bạch chuỗi cung ứng, đặc biệt trong ngành nông sản, dược phẩm và điện tử.
Nhóm thứ ba là các nền tảng liên quan đến quản trị tiêu chuẩn, đánh giá và thử nghiệm. Đây là nhóm nền tảng ít được chú ý nhưng lại có vai trò cốt lõi trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và sự tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế. Các nền tảng như quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng hay nền tảng thử nghiệm số cho phép doanh nghiệp rút ngắn thời gian kiểm định sản phẩm, giảm chi phí và tăng khả năng truy xuất lịch sử đánh giá. Khi các quy trình được chuẩn hóa và số hóa, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ tăng lên đáng kể, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhóm cuối cùng là các nền tảng hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Các nền tảng đổi mới sáng tạo mở, nền tảng quản lý tài sản trí tuệ hay phân tích xu hướng công nghệ sẽ giúp kết nối viện nghiên cứu, doanh nghiệp và startup trong một hệ thống thông suốt. Khi tài sản trí tuệ được quản lý tập trung và minh bạch, khi dữ liệu sáng chế có thể truy cập dễ dàng, khả năng thương mại hóa các kết quả nghiên cứu sẽ tăng lên rõ rệt. Đây là yếu tố then chốt để Việt Nam chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ sang mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ.
Thúc đẩy thị trường dữ liệu và nâng cao năng suất toàn nền kinh tế
Việc triển khai các nền tảng dùng chung không chỉ tạo ra lợi ích cho từng ngành mà còn mang đến tác động lan tỏa diện rộng trên phạm vi toàn nền kinh tế. Trước hết, chi phí đầu tư vào hạ tầng số sẽ giảm đáng kể. Khi các bộ ngành và địa phương sử dụng chung một nền tảng dữ liệu hay hệ thống giám sát, ngân sách công sẽ không còn phải phân tán cho hàng nghìn dự án nhỏ lẻ. Doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể tiếp cận công nghệ tiên tiến với chi phí phù hợp mà không cần xây dựng hạ tầng riêng. Điều này tạo ra hiệu ứng bình đẳng và thu hẹp khoảng cách số giữa các nhóm doanh nghiệp.
Thứ hai, khi dữ liệu được chuẩn hóa và có khả năng chia sẻ, thị trường dữ liệu ngành sẽ bắt đầu hình thành. Doanh nghiệp công nghệ có thể xây dựng các sản phẩm và dịch vụ mới dựa trên dữ liệu mở, tạo ra hệ sinh thái ứng dụng phong phú. Thị trường dữ liệu không chỉ tạo ra giá trị kinh tế trực tiếp mà còn giúp tăng tính minh bạch và giảm rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các bộ ngành có thể khai thác dữ liệu để dự báo biến động thị trường, điều hành chính sách một cách linh hoạt và kịp thời hơn.
Thứ ba, năng suất lao động sẽ được cải thiện đáng kể. Các nền tảng sản xuất thông minh và quản lý chuỗi cung ứng giúp giảm lãng phí, tối ưu máy móc, rút ngắn thời gian xử lý đơn hàng và giảm tỷ lệ sai lỗi trong sản xuất. Những cải thiện này tích lũy theo thời gian sẽ tạo ra mức tăng năng suất mang tính đột phá, đặc biệt trong các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may và da giày hay các ngành yêu cầu độ chính xác cao như điện tử và cơ khí.
Cuối cùng, việc hình thành nền tảng dữ liệu ngành sẽ giúp nâng cao năng lực điều hành của cơ quan quản lý nhà nước. Khi dữ liệu được cập nhật theo thời gian thực và có thể truy xuất dễ dàng, quá trình hoạch định chính sách sẽ trở nên khoa học hơn. Quyết định chính sách dựa trên dữ liệu sẽ giảm được tính chủ quan, tránh tình trạng chậm trễ và nâng cao chất lượng điều hành.
Biến nền tảng dùng chung thành động lực tăng trưởng thực sự
Để các nền tảng dùng chung thực sự tạo ra giá trị, bốn điều kiện quan trọng cần được đáp ứng đồng bộ. Trước hết là thể chế và tiêu chuẩn dữ liệu, yếu tố quyết định sự thông suốt của toàn hệ thống. Việt Nam cần ban hành các chuẩn dữ liệu chung cho từng ngành, từ tiêu chuẩn định danh sản phẩm, tiêu chuẩn trong chuỗi cung ứng cho tới chuẩn dữ liệu liên quan tới đất đai, mùa vụ hay năng lượng. Một khung pháp lý rõ ràng về chia sẻ và bảo vệ dữ liệu cũng là điều kiện bắt buộc nhằm bảo đảm an toàn thông tin và quyền riêng tư của người dân và doanh nghiệp.
Tiếp theo là yêu cầu về kiến trúc kỹ thuật. Các nền tảng phải được thiết kế theo kiến trúc tổng thể của Chính phủ số và tuân thủ chuẩn API mở, chuẩn bảo mật và chuẩn định dạng dữ liệu thống nhất. Điều này bảo đảm các nền tảng không phát triển theo hướng biệt lập mà có khả năng kết nối ngay từ khi xây dựng. Nếu kiến trúc không thống nhất, nền tảng dùng chung sẽ mất đi ý nghĩa ban đầu và quay trở lại tình trạng phân mảnh như trước.
Yếu tố thứ ba là mô hình vận hành bền vững. Nhà nước đóng vai trò thiết lập chuẩn và bảo đảm an toàn hệ thống, trong khi doanh nghiệp công nghệ đóng vai trò phát triển và vận hành dịch vụ. Mô hình này giúp giảm gánh nặng ngân sách và tạo ra động lực thị trường cho doanh nghiệp tư nhân. Khi có mô hình vận hành rõ ràng, doanh nghiệp sẽ chủ động đầu tư và đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy sự phát triển dài hạn của nền tảng.
Cuối cùng là năng lực triển khai và sử dụng nền tảng. Nền tảng chỉ có giá trị khi người dùng biết cách khai thác dữ liệu và ứng dụng công nghệ vào thực tiễn. Cơ quan nhà nước và doanh nghiệp cần được đào tạo về phân tích dữ liệu, quản lý chuỗi cung ứng số và vận hành hệ thống sản xuất thông minh. Khi năng lực sử dụng được cải thiện, nền tảng sẽ phát huy hiệu quả và tạo giá trị thực cho nền kinh tế.
Quyết định 2618 không chỉ đơn thuần là một văn bản kỹ thuật liệt kê các nền tảng số mà là một định hướng chiến lược nhằm tạo ra hạ tầng mềm phục vụ cho phát triển kinh tế số ngành. Khi các nền tảng dữ liệu, nền tảng sản xuất thông minh, nền tảng quản trị chất lượng và nền tảng đổi mới sáng tạo được triển khai đồng bộ, Việt Nam sẽ có khả năng nâng cao năng suất, tối ưu chi phí và hình thành một thị trường dữ liệu rộng lớn.
Thái Khang