"Biết ngoại ngữ dù chỉ chút ít sẽ giúp ta phát âm tên đối tác chính xác hơn, tránh được chuyện làm họ phật lòng khi thấy tên mình bị biến tướng quá đáng.

Tháng trước, công chúng được phen  xôn xao vì bản dự thảo quy chế của cơ quan nọ, có yêu cầu về "chuẩn ngoại ngữ". Chuyện khiến tôi không khỏi nhớ đến một câu chuyên cười phổ biến trong giới sinh viên khối kinh tế vài năm về trước.

Một vị khách bước vào gian hàng bán chim cảnh, thấy có rất nhiều lồng vẹt với đủ màu sắc, giống loài, tư thế... vui mắt. Ông chủ ra chào, thông báo cửa hàng của ông có đủ mọi loại vẹt rất thông thái. Khách chỉ vào một con vẹt trông nghiêm trang, sạch sẽ, hỏi: "Thế con này biết làm gì? Giá bao nhiêu?" Ông chủ trả lời: "Con này tốt nghiệp ĐH A, biết kế toán và vi tính, có thể lên kế hoạch kinh doanh bài bản, giá 5tr".

Khách lại chỉ vào một con vẹt khác trông màu mè, cảnh vè hơn đôi chút, hỏi "Thế con này thì sao?". Ông chủ nói: "Ấy con này có bằng ĐH B, không những biết biết kế toán và vi tính mà còn có thể chào khách bằng tiếng Anh đấy. Giá những 10tr cơ". 

{keywords}

"Người lãnh đạo cần biết ngoại ngữ, tiếng Anh là tốt nhấtvì đó là ngôn ngữ giao tiếp phổ biến nhất trên thế giới. Nếu không thì ít nhấtcũng nên biết 1 trong 5 ngoại ngữ Bộ quy định vì ngoại ngữ không chỉ là chìakhóa mở cửa vào một nền văn hóa khác mà còn dạy ta một cách tư duy khác"

Học chữ thánh hiền để làm quan

Chuyện "ngụ ngôn hiện đại" là như vậy. Nhưng lật lại câu chuyện học ngoại ngữ của cán bộ, công chức nhà nước ta thì phải nói là lúc nào, ở đâu học thứ tiếng gì thì mỗi thời lại mỗi khác. Xin điểm qua dưới đây.

Trước khi người Pháp vào VN, ngoại ngữ bắt buộc là chữ Nho. Trong thứ bậc xã hội là "Sĩ, Nông, Công, Thương", "Sĩ" luôn đứng hàng đầu với tiêu chuẩn phải am hiểu chữ thánh hiền là chữ Hán để còn thi đỗ làm quan.

Nhưng đến đầu những năm 1930, khi người Pháp chính thức đô hộ Việt nam thì các ông đồ phải "Vứt bút lông đi, giắt bút chì", chuyển sang học tiếng Pháp. Nhà văn Nguyễn Công Hoan từng kể, bà nội ông nghe ông ê a học tiếng Pháp đã cấm tiệt học cái thứ tiếng vô học, thô tục ấy, chữ thánh hiền không học mà toàn những "bố cu" (beaucoup - rất) với "đít cua (discours - diễn văn). Nhưng tiếng Pháp thời ấy là con đường để học sinh sau khi tốt nghiệp được làm thấy ký, thông ngôn, ông phán... với thu nhập khá hơn. Với trí thức, tiếng Pháp cũng là ngôn ngữ không thể thiếu để tiếp thu những kiến thức khoa học mới mẻ theo làn sóng Âu hóa tràn vào Việt Nam. Vì vậy quan chức và trí thức thời đó đều thành thạo tiếng Pháp.

Nhờ đó họ đã tiếp thu được thành tựu văn minh phương Tây và đã có một số công trình đáng kể để lại cho con cháu đời sau. Những cái tên như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Tôn Thất Tùng, Nguyễn tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Khái Hưng, Thạch Lam... đều là những trí thức trưởng thành trong thời gian này và đều đã có những đóng góp đáng kể cho kho tàng tri thức Việt Nam.

Sau năm 1954, tiếng Nga trở thành ngoại ngữ phổ biến nhất ở Việt Nam. Hàng năm có hàng ngàn người được cử đi đào tạo tại các nước XHCN, mà chủ yếu là đi Nga.

Các kỹ sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ được đào tạo trong thời gian này đã là nòng cốt trong các trường Đại học, các Viện Nghiên cứu và cả các cơ quan bộ ngành từ Trung ương đến địa phương.

Tiếng Nga đã trở thành ngôn ngữ của khoa học đối với người dân Việt lúc ấy, như một câu châm ngôn vui của giới lưu học sinh: "Tiếng Nga là ngôn ngữ của KH, tiếng Pháp là ngôn ngữ ngoại giao, tiếng Italia là ngôn ngữ của âm nhạc, tiếng Anh là ngôn ngữ của thương mại còn tiếng Đức là tiếng để nói với kẻ thù". Do mối quan hệ về ý thức hệ với « anh cả trong khối XHCN » việc biết tiếng Nga đã trở thành bắt buộc.

Sau tiếng Anh là gì?

Kể từ khi Nhà nước tiến hành chính sách mở cửa thì tiếng Anh trở nên đắt hàng, người biết tiếng Nga lại sa vào hoàn cảnh ế ẩm như các ông đồ thời xưa. Lý do là vì sau Đổi mới, các ngành khoa học tự nhiên (là những ngành Liên Xô cũ và Nga sau này có chút thế mạnh) ít người theo học mà sinh viên chỉ đổ xô vào các ngành kinh tế, tài chính... là những ngành thuộc thế mạnh của phương Tây. Người Việt luôn quá tả, thành ra với các bậc bố mẹ, tiếng Anh trở thành chìa khóa mở cửa thiên đường cho con cái họ.

Phụ huynh sẵn sàng đầu tư hàng triệu đồng/tháng để cho những đứa trẻ còn chưa sõi tiếng Việt đi học tiếng Anh. Vốn không hiểu hệ thống thi cử của nước ngoài, họ yên trí những chứng chỉ TOEFL hay IELTS là bằng chứng tối thượng về khả năng của con cái họ mà không biết với hầu hết nghề nghiệp, ngoại ngữ chỉ là phương tiện, không phải là chuyên môn. Hơn nữa, những chứng chỉ ấy chỉ chứng mình sự lưu loát tương đối của người thi, không  bảo đảm khả năng viết hay tư duy của con cái họ.

Nguy hại hơn nữa là trẻ con cứ tưởng mình có cái chứng chỉ ấy là nhất rồi nên nếu điểm học các môn khác mà kém là tại giáo viên chứ không phải tại mình. Thành ra làm người Việt, sống trên đất Việt mà một bộ phận không nhỏ người Việt chỉ biết đánh giá người khác qua khả năng sử dụng tiếng Anh!

Chắc cũng vì ý thức được tầm quan trọng của ngoại ngữ nên mới có chuyện đưa ra tiêu chuẩn phải biết ngoại ngữ, bên cạnh những tiêu chuẩn như Yêu nước, không tham nhũng...

Theo quan điểm của tôi, thế kỷ 21 là thế kỷ của hội nhập, của kinh tế tri thức nên người lãnh đạo cần biết ngoại ngữ, tiếng Anh là tốt nhất vì đó là ngôn ngữ giao tiếp phổ biến nhất trên thế giới. Nếu không thì ít nhất cũng nên biết 1 trong 5 ngoại ngữ Bộ quy định vì ngoại ngữ không chỉ là chìa khóa mở cửa vào một nền văn hóa khác mà còn dạy ta một cách tư duy khác. Ví dụ biết tiếng Anh ta sẽ thấy họ tư duy bình đẳng hơn các nước khác, không cần quá cầu kỳ trong cách xưng hô; tiếng Trung Quốc lại cho thấy tư duy tượng hình về đời sống... Biết ngoại ngữ dù chỉ chút ít sẽ giúp ta phát âm tên đối tác chính xác hơn, tránh được chuyện làm họ phật lòng khi thấy tên mình bị biến tướng quá đáng.

Như Phó TT Vũ Khoan đã nói, "phiên dịch là cầu nối với các nước khác. Nếu cái cầu ấy ọp ẹp, bấp bênh, ván lát rơi ra thì quan hệ quốc tế có thể "thụt chân" chứ chẳng chơi"[1]. Vì vậy, người học ngoại ngữ sẽ có tư duy cởi mở, dễ thông cảm và hợp tác với người khác tốt hơn. Chưa kể việc biết ngoại ngữ sẽ giúp ta bớt phụ thuộc vào người phiên dịch.

Từ kinh nghiệm bản thân, 100% những trường hợp phải dùng phiên dịch đều tìm thấy có sự khác biệt giữa ý của tác giả và bản dịch. Vì vậy, đã có câu "Dịch là diệt", muốn chất lượng công việc đảm bảo lãnh đạo có thể dùng phiên dịch nhưng cần có khả năng kiểm tra lại trình độ và tính chuyên nghiệp của phiên dịch đó, tức là cần có kiến thức ngoại ngữ nhất định.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh Việt Nam mới hội nhập và việc dạy ngoại ngữ của nhà trường còn khá hạn chế. Hệ quả là học sinh (HS) học hết phổ thông không nói được, người khác nói cũng... không hiểu gì.

Các quan chức lại trưởng thành từ thời bao cấp nên cần có một lộ trình tái đào tạo và bổ nhiệm phù hợp. Bộ Nội vụ có thể  buộc cán bộ muốn được bổ nhiệm phải có TOEIC đạt trình độ tương ứng với cấp bậc (nên theo chuẩn của quốc tế vì sẽ khách quan hơn và nên theo chuẩn TOEIC hơn là TOEFL hay IELTs vì đây là chuẩn ngoại ngữ cho người làm việc). Nếu được như vậy, tương lai các quan chức VN có thể đàng hoàng giao tiếp với quan chức năm châu không còn xa nữa và góp phần nâng cao vị thế VN trên trường quốc tế.

....

Xin quay lại câu chuyện mua vẹt của nhóm sinh viên trong câu chuyện ngụ ngôn ở trên. Phần kết của câu chuyện là ông khách hỏi: "Thế con vẹt nào cao giá nhất ở đây?", chủ quán liền đưa ra 1 con vẹt đang đứng rỉa lông trong lồng, "Con này đắt nhất, giá nó là 50 triệu". Khách ngạc nhiên hỏi: "Thế nó biết làm gì?", bụng nghĩ chắc nó phải có bằng TS, ThS gì đó, biết 2-3 ngoại ngữ...

Nhưng chủ quán bảo, nó chẳng nói được ngoại ngữ nào nhưng được cử là sếp của hai con kia!


Nguyễn Hoàng Ánh (ĐH Ngoại thương)


[1] Ông Vũ Khoan nói về nghề "thông ngôn"

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-05-25-ong-vu-khoan-noi-ve-nghe-thong-ngon-

  Bài cùng tác giả

Tại sao HQ, Singapore tránh được "lệ thuộc" TQ?

 Biến cố lịch sử Trung Quốc đe dọa biển đảo Việt Nam đã thúc đẩy chúng ta nhìn lại sự phụ thuộc của thị trường Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.

Thời xe Phượng Hoàng ngang vé... độc đắc

Cơn lũ hàng Trung Quốc là thực trạng của cả thế giới. Nhưng hàng Trung Quốc mà dân gian thường gọi là hàng Tàu trong ký ức của tôi không mang gương mặt xấu xí như vậy.

Tổ quốc dạy tôi yêu như thế!

Muốn yên thân nên đã có lần tôi định nhận là người nước khác. Nhưng tôi không thể mở miệng ra nói được, tôi cảm thấy nhục nhã nếu phải phủ nhận gốc rễ của mình. Và lúc ấy tôi mới hiểu ra rằng, tôi rất yêu nước.