Nếu quan tâm theo dõi trang phục mà các vị đại sứ của nước ta mặc trong các lễ trình Quốc thư gần đây, thì đúng là thật đa dạng, nhiều kiểu. 

Người thì theo lễ phục châu Âu, nơ đen, nơ trắng. Người thì mặc áo dài, khăn xếp. Theo áo dài, khăn xếp, thì mỗi người lại theo một kiểu khác nhau. Người thì theo áo dài tay chẽn, người thì mặc áo dài tay thụng, người thì mặc áo dài kiểu của người chủ lễ trong Lễ giỗ Quốc tổ Hùng Vương. 

Có người lại mặc áo dài chẽn nách, thụng tay như trong phim cổ trang của Trung Quốc nói về thời cổ đại. Mọi người lên án, mỉa mai khá nhiều.

Tôi nghĩ là quá oan cho các vị đại sứ! Tuy nhiên, cũng có vị vượt ra quá xa với nhận biết của mọi người về chiếc áo dài Việt.

Cứ tạm coi lỗi đó là do “hoàn cảnh đất nước ta”.

Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Lý Đức Trung trình Quốc thư lên Tổng thống Nhà nước Israel Isaac Herzog. Ảnh: ĐSQ Việt Nam tại Israel

Hồi mới lập nước, ngân khố trống rỗng, chỉ mong lo được cái ăn, ai nghĩ đến chuyện mặc. Sau khi được Quốc hội năm 1946 bầu, Chính phủ cụ Hồ ra mắt quốc dân đồng bào, mỗi người mặc một kiểu, ai có gì mặc nấy. Mấy vị quan cũ theo cách mạng thì áo the, khăn xếp; mấy vị lãnh đạo xuất thân từ cách mạng và các vị trí thức Tây học thì Tây phục hai màu, quần một thứ, áo một thứ.

Rồi kháng chiến chống Pháp, tất cả lên chiến khu, mặc theo thời chiến, bộ đồ kaki, với áo trấn thủ là sang.

Hòa bình lập lại, đất nước chia hai. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo phe xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm và cảm ơn các nước đã giúp ta trong kháng chiến chống Pháp. Họ đều là anh em đồng chí, tình cảm quốc tế cộng sản không cần lễ nghi. Cụ đi nước ngoài với đôi dép cao su, mặc bộ kaki may theo kiểu Tôn Trung Sơn có cải biên đã trở thành nổi tiếng và giản dị.

Thời ấy, kiểu áo đó được nhiều người ưa chuộng, lấy làm mẫu may theo, nhất là lớp cán bộ lãnh đạo cao cấp. Do vậy, buổi ban đầu dân dã quen gọi là kiểu áo “lãnh tụ”. Sau đó, nhiều người đua nhau may để mặc, kể cả cán bộ cấp thấp hơn. Rồi bên quân đội khi may quân phục cho các cấp chỉ huy, cũng với kiểu áo đó, mọi người mới đổi, gọi là bộ đồ “đại cán”. Dần dần, bộ đồ “đại cán” được coi như lễ phục.

Sang thập niên 1960, giao lưu với các nước xã hội chủ nghĩa “anh em” tăng lên, số người đi - về nhiều. Sang Liên Xô và các nước Đông Âu thì phải mặc Âu phục. Dần dần, bộ complet với chiếc cà vạt trở thành thông dụng, được nhiều người đi nước ngoài mặc, rồi cũng được coi như lễ phục. Cán bộ hồi đó nghèo, không đủ tiền may sắm. Bộ Tài chính có cả một kho quần áo complet và cà vạt để cho những người được cử đi công tác nước ngoài mượn.

Thời kỳ đó, trang thiết bị ở các công sở rất nghèo nàn. Điều hòa nhiệt độ hầu như không có. Nếu mặc bộ đồ “đại cán” hoặc bộ complet mà tiếp khách trong mùa hè, thì không ai chịu nổi. Bộ Ngoại giao mới có thêm qui định, lễ phục mùa hè là quần dài, áo sơ mi trắng cộc tay, bỏ ngoài quần (áp dụng từ ngày 16/4 đến ngày 15/10 hằng năm). 

Cho nên, mọi người có thể thấy, trong những bức ảnh chụp thời đó, các vị lãnh đạo của ta thường mặc áo trắng cộc tay vào các ngày lễ.

Đại sứ Đinh Toàn Thắng trình Quốc thư lên Quốc vương Monaco

Sau năm 1975, bộ đồ “đại cán” bị loại bỏ dần, sau năm 1979 thì mất hẳn. Bộ đồ complet với cà vạt trở thành lễ phục nam, giống như tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Khối các nước xã hội chủ nghĩa coi đó là lễ phục nam duy nhất.

Còn ở Việt Nam Cộng hòa, tôi nghe nói, Chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng có qui định về lễ phục. Lễ phục có hai loại: lễ phục châu Âu và quốc phục, có qui định cụ thể về việc dùng lễ phục châu Âu và quốc phục trong từng trường hợp. Quốc phục nam là áo dài khăn xếp theo thiết kế mẫu, không phải theo sở thích từng người. Qui định đó vẫn được dùng cho đến ngày 30/4/1975.

Ngược lại, ở miền Bắc, sau cải cách ruộng đất và chiến dịch cải tạo công thương nghiệp, áo dài, khăn xếp bị coi là tàn tích của chế độ cũ. Hình mẫu của người địa chủ bị đấu tố là người đàn ông mặc áo dài, đội khăn xếp; người nông dân đứng lên đấu tố là người mặc quần nâu, áo ngắn. Hình ảnh tranh cổ động treo khắp nơi để nói về liên minh Công Nông Binh là người nông dân mặc bộ quần áo ngắn màu nâu. Áo dài, khăn xếp trở thành biểu tượng của một chế độ đã bị lật đổ, là của giai cấp bóc lột.

Những người vẽ tranh tuyên truyền lúc đó không biết được rằng, người dân Việt đã trân quí chiếc áo dài, khăn xếp như thế nào. Họ không biết, những người nông dân nghèo vẫn cố gắng dành dụm, chắt bóp sắm cho được một chiếc áo dài, khăn xếp để khi có việc ra đình làng mới lấy ra mặc. Bộ quần áo nâu chỉ là bộ quần áo làm việc, mặc thường ngày ở nhà. 

Họ cũng không được nghe kể lại là, ngay cả những bà con dân tộc ít người ở miền Trung khi về Huế có việc đều khoác chiếc áo dài, đội khăn xếp, mặc dù theo phong tục vẫn phải đóng khố, không được mặc quần (việc này tôi được nghe mẹ tôi kể lại, tôi không được chứng kiến).

Thật là long đong, vất vả cho một bộ quần áo có một thời được coi là quốc phục! Nó đã bị cuốn hút vào công cuộc đấu tranh quan điểm.

Sau năm 1990, thế giới có thay đổi lớn, quan hệ đối ngoại được mở rộng, đặc biệt là với các nước tư bản phát triển ở Tây Âu và Bắc Âu. Trong các dịp lễ hội lớn, các dịp trình Quốc thư, theo qui định lễ tân của các quốc gia đó, người tham dự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức lễ phục: lễ phục châu Âu, hoặc là quốc phục.

Theo lễ phục châu Âu thì thật là phức tạp, khó khăn. Bộ complet với cà vạt mà ta vẫn thường coi là lễ phục, thì với họ chỉ là bộ đồ business suite, bộ đồ làm việc, khi lễ tân cho phép mới được mặc. Còn lễ phục theo qui định của họ thì có nhiều loại, tùy theo hình thức, nội dung và thời gian của buổi lễ mà có qui định về lễ phục phù hợp, nào là White tie, Black tie, rồi thì Morning dress…

Với mỗi loại, lại có qui định riêng rất chặt chẽ, phải đồng bộ từ quần áo đến giày và các phụ kiện đi theo. Đối với dân mình không quen mặc, thì thật phiền toái. Đặt may thì đắt tiền và lâu, phải có nhiều bộ, mấy khi dùng đến. 

Những người làm công tác ngoại giao thường phải đi thuê. Đi thuê cũng lại tốn tiền, mỗi lần thuê cho một người cũng mất khoảng 1.000 USD. Cho một lần trình Quốc thư, tiền thuê quần áo cũng mất 3.000 - 4.000 USD. Chưa kể, còn nhiều ngày lễ khác. Thuê cho vừa với người mình cũng là khó, người họ - người mình to nhỏ khác xa nhau. Thật là phiền toái cho những người làm đối ngoại! Những lúc đó, mọi người đều mong muốn có một bộ quốc phục.

Thấy bức xúc của những người làm công tác đối ngoại, từ năm 1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo Bộ Văn hóa nghiên cứu để ban hành qui định về quốc phục. Nhưng bàn nhiều mà vẫn không quyết định được. Lại đụng vấn đề quan điểm.

Tháng 6/1995, tôi tháp tùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt đi thăm các nước Bắc Âu và Anh quốc. Khi thăm Anh, điểm đến đầu tiên của chúng tôi là Aberdeen, một thành phố ở miền Đông Bắc Scotland. Đón đoàn tại sân bay, có ông Thị trưởng Aberdeen và dàn nhạc toàn nam giới của thành phố. Tất cả mọi người ra đón đều mặc váy kẻ ô ngắn trên đầu gối và áo vét thêu, quốc phục của Scotland. Tối hôm đó, chúng tôi về Edinburgh, Thủ đô của Scotland, dự tiệc của Thị trưởng Edinburgh, những người Scotland vẫn mặc quốc phục đó.

Sau buổi tiệc, Thủ tướng nói với chúng tôi:

- Các anh thấy không, cho dù phát triển đến đâu, họ vẫn giữ được truyền thống của họ. Quốc phục vẫn là quốc phục. Ta thì nghiên cứu mãi không xong!

Xung quanh chuyện quốc phục cũng có chuyện “đau” và “cay”.

Chuyện là, tháng 10/1995, Đoàn Việt Nam đi dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc. Đoàn dừng ở Cu Ba trước khi sang New York (Mỹ). Mấy lần liền, tôi thấy chị D. phụ trách lễ tân bận rộn điện đàm với cơ quan đại diện của ta ở New York.

Tôi hỏi:

- Có việc gì mà căng thẳng vậy?

Chị D. nói:

- Lại vẫn chuyện lễ phục trong dạ tiệc chào mừng. Lễ tân của Liên hợp quốc qui định hai hình thức: quốc phục của quốc gia người tham dự hoặc lễ phục phương Tây trang trọng nhất, White tie. Phía ta không chấp nhận mặc White tie và cũng không quốc phục vì chưa có qui định về quốc phục. Phía ta đề nghị mặc bộ complet và cà vạt như ta thường mặc. Phía bạn không chấp nhận. Cuối cùng, sau nhiều lần làm việc, hai bên thỏa thuận dung hòa, đoàn ta mặc bộ complet sẫm màu thường mặc và thắt nơ đen.

Buổi đó, tôi không tham dự. Hôm sau, tôi hỏi chị D.:

- Buổi dạ tiệc thế nào?

Chi D. nói :

- “Đau” quá anh ạ, đoàn ta mặc chẳng giống ai, lại gần giống mấy người phục vụ, họ cũng áo vét, nơ đen, nhìn họ lại còn sang hơn ta vì quần áo của họ may đẹp hơn ta.

Thật là một chuyện để nhớ!

Sau những chuyến đi đó, những năm 1996 - 1997, Thủ tướng lại thúc giục Bộ Văn hóa sớm ban hành qui định về quốc phục. Bộ Văn hóa lại nghiên cứu, lại hội thảo. Lại trình xin ý kiến. Ý kiến lại trái chiều, quan điểm lại khác nhau.

Mọi việc lại cứ trôi.

Thời gian lại đi nhanh!

***

Từ ngày Thủ tướng khởi xướng ban hành qui định về quốc phục đến nay đã gần 30 năm.

Ba mươi năm chưa chọn được một mẫu quần áo mà dân ta đã từng mặc để làm quốc phục.

Ba mươi năm rồi, mà các nhà ngoại giao vẫn phải mỗi người tùy theo cảm hứng của mình, tự nghĩ cho mình một kiểu quần áo và coi đó là quốc phục.

Làm sao ta trách họ được! Lại đổ cho hoàn cảnh nước ta chăng?

Đến bao giờ ta có được bộ quốc phục để “sánh vai” các nước trong vùng hoặc xa hơn là với các ông vua dầu mỏ, với những người dân châu Phi xa xôi để cho những người làm công tác đối ngoại dễ mặc, dễ đi, dễ đứng và dễ nói?

Biết đến bao giờ?

Võ Hồng Phúc