Tổ hợp phòng thủ Patriot được đánh giá đã giúp Ukraine tăng cường đáng kể khả năng đánh chặn những đợt tấn công tên lửa siêu thanh của Nga trong cuộc xung đột hiện tại. Song, Patriot có tuổi đời từ những năm 1980 và hệ thống này cần được bổ sung những nâng cấp mới để có thể đối phó với công nghệ tên lửa hành trình ngày nay.

“Không điểm mù”

Hiện Washington đã phát triển hai cảm biến phòng không mới do Raytheon Missiles & Defense sản xuất. Trong đó, cảm biến phòng thủ tên lửa và phòng không tầng thấp (LTAMDS) sẽ là một trong những công nghệ quan trọng nhất được bổ sung cho hệ thống phòng thủ đánh chặn. Công nghệ này sẽ thay thế cho “radar đánh chặn theo pha” đang được trang bị trên những tổ hợp Patriot hiện tại.

Dự án “Không điểm mù” do nhà thầu quốc phòng Raytheon thiết kế, nhằm mục tiêu vô hiệu hoá các mối đe doạ trên không, bao gồm tên lửa và máy bay siêu thanh bằng các hệ thống phòng thủ tên lửa tầng thấp. Nhà phát triển kỳ vọng có thể nâng cấp khả năng cơ động của tổ hợp Patriot và cải thiện tốc độ bắn tên lửa trong thời gian tới.

Hệ thống radar mạnh mẽ là điểm nhấn của tổ hợp Patriot, song cũng là "tử huyệt" khi sóng phản xạ có thể bị phát hiện và truy vết bởi đối phương

Trái ngược với hệ thống radar hiện tại chỉ có khả năng bao quát không gian chiến đấu hạn chế, LTAMDS cung cấp phạm vi quan sát 360 độ cùng nhiều cảm biến nâng cao hiển thị và tăng cường sức mạnh cho các tiểu đoàn tên lửa Patriot.

Khả năng bao quát toàn bộ chiến trường cho phép các mạng lưới phòng không tích hợp có thể được phân tán trên một khu vực rộng lớn hơn, tăng phạm vi hoạt động của chúng, đồng thời nâng cao khả năng sống sót trong trường hợp bị tấn công.

Bên cạnh đó, với khả năng tương tác và tính mô-đun, LTAMDS có thể bảo vệ chống lại các mối đe dọa tiên tiến nhất, bao gồm tên lửa đạn đạo chiến thuật, máy bay và tên lửa hành trình. Chúng có thể phát hiện các mục tiêu cơ động tốc độ cao từ khoảng cách xa và cung cấp dữ liệu cho cả mạng lưới.

LTAMDS được chế tạo từ công nghệ hợp chất bán dẫn năng lượng Gallium Nitride (GaN), giúp nâng cao cường độ tín hiệu và độ nhạy của máy phát trong hệ thống. Ưu điểm đáng kể nhất của công nghệ này là không cần bảo dưỡng hay sửa chữa trong suốt vòng đời và ít toả nhiệt khi hoạt động.

Raytheon đã mất nhiều năm để cải tiến công nghệ GaN nhằm cung cấp cho hệ thống radar khả năng phát hiện mối đe dọa 360 độ trong thiết kế, bao gồm một tấm lớn ở phía trước và hai tấm nhỏ hơn ở phía sau. Các tấm nhỏ hơn có kích thước bằng một nửa so với radar trang bị trên Patriot hiện tại nhưng có sức mạnh gấp đôi nhờ vào công nghệ GaN cải tiến.

Nâng sức mạnh cho “lưới lửa”

Patriot có khả năng tác chiến như một hệ thống độc lập, nhưng tiềm năng của hệ thống đánh chặn này chỉ được phát huy hết khi tích hợp cùng với một mạng lưới gồm nhiều hệ thống phòng thủ tầng thấp. 

Một khẩu đội Patriot có sáu thành phần chính: bộ phận máy điện (hai máy phát điện 150 kilowatt gắn trên xe), bộ radar, trạm kiểm soát giao chiến, trạm phóng, nhóm cột ăng ten và tên lửa đánh chặn (PAC-2 và PAC- 3). Bộ radar cung cấp khả năng phát hiện và theo dõi các mục tiêu và điều khiển hỏa lực.

Đến nay, tính cả Ukraine, đã có 18 quốc gia đưa Patriot vào sử dụng trong biên chế

Các tấm radar giúp dẫn đường cho tên lửa đánh chặn nhắm trúng mục tiêu và có khả năng chống gây nhiễu. Trong khi đó, trạm kiểm soát tham gia tính toán quỹ đạo tên lửa đánh chặn và kiểm soát trình tự phóng. Nó cũng có thể liên lạc với các trạm phóng và các khẩu đội Patriot khác. Đây là bộ phận có người lái duy nhất trong tổ hợp phòng không này.

Trạm phóng vận chuyển và bảo vệ các tên lửa đánh chặn và cung cấp nền tảng cho việc phóng tên lửa vật lý. Mỗi trạm phóng có thể chứa 4 tên lửa PAC-2 hoặc 16 tên lửa PAC-3. Antenna Mast Group là xương sống thông tin liên lạc hàng đầu cho đơn vị Patriot.

Ngoài hệ thống radar Raytheon, Hệ thống Chỉ huy Chiến đấu Tích hợp (IBCS) do Northrop Grumman phát triển sẽ được quân đội Mỹ triển khai ở các đơn vị chiến đấu tiền tuyến.

IBCS là nền tảng tích hợp nhiều cảm biến và hệ thống vũ khí vào một mạng lưới duy nhất, cho phép đưa ra quyết định nhanh hơn và tham gia hiệu quả hơn vào các mục tiêu trong các hoạt động chiến đấu đa miền.

Nó có thể cung cấp cho quân đội khả năng nhận thức tình huống nâng cao, cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng khả năng sát thương đồng thời cho phép khả năng tương tác và tích hợp cấp cao giữa các đối tác liên minh.

(Theo EurAsian Times)