Mối nguy của chủ nghĩa đa đảng
Luật Quan hệ Đài Loan đánh dấu sự khởi đầu của một xu hướng quyết đoán trong Quốc hội về chính sách Trung Quốc của Mỹ, và văn bản này tiếp tục làm phức tạp thêm quan hệ của Washington với Bắc Kinh. 10 năm qua, sự kiện Thiên An Môn năm 1989, sau đó là kết thúc Chiến tranh Lạnh, đã thay đổi giọng điệu tranh luận tại Mỹ.
Trung Quốc đã được xem là một chế độ tự do hóa. Sự tan rã của Liên bang Xô viết đã làm tiêu tan nhiệm vụ chiến lược là phải hợp tác với Bắc Kinh. Hơn nữa, các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển giữa Mỹ - Trung Quốc đã bắt đầu tạo ra những xích mích trong các vấn đề như bán phá giá hàng hóa Trung Quốc trên thị trường Mỹ và sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ. Sau nhiều thập kỷ đồng thuận tại Mỹ, Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành một vấn đề gây chia rẽ nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ, đặc biệt vì các nỗ lực ngày một mạnh mẽ của các nhóm lợi ích khiến Trung Quốc vẫn nằm trong chương trình nghị sự ở Đồi Capitol.
Thực vậy, kể từ sự kiện Thiên An Môn, Trung Quốc đã thu hút sự chú ý của nhiều nhóm lợi ích ở Mỹ hơn các nước khác. Nhưng tất nhiên cũng có những người trong Quốc hội, các chuyên gia cố vấn, giới truyền thông và các học giả ủng hộ quan điểm tích cực với Trung Quốc. Những người này cho rằng việc hợp tác với Trung Quốc rất quan trọng đối với nông dân, các nhà xuất khẩu và các nhân hàng Mỹ, và cả Phố Wall, hoặc các vấn đề như Triều Tiên và biến đối khí hậu quan trọng hơn tranh cãi về nhân quyền hay tôn giáo.
![]() |
Ảnh minh họa |
Những biện hộ này về lâu dài có thể mạnh hơn những chỉ trích Trung Quốc, nhưng lại có xu hướng bị xếp vào vị trí hậu trường. Đối với các chuyên gia phân tích Trung Quốc cảm nhận về ảnh hưởng xấu của cách nhìn trong giới chính sách Mỹ, những tiếng nói to nhất là dễ nghe thấy nhất, và các dấu hiệu đã đến mức đáng báo động.
Những mối đe dọa bọc đường
Trong khi cố tìm hiểu chắc chắn về các ý định của Mỹ, các chuyên gia Trung Quốc cũng nhìn vào các tuyên bố chính sách do các gương mặt cấp cao trong nhánh hành pháp đưa ra. Xuất thân từ một hệ thống chính trị do cơ quan hành pháp chế ngự, các chuyên gia Trung Quốc coi các tuyên bố này là sự chỉ dẫn đáng tin cậy về chiến lược của Mỹ. Họ thấy rằng các tuyên bố này thường làm hai việc: chúng tìm cách trấn an Bắc Kinh rằng các ý định của Washington là tốt, đồng thời tìm cách trấn an công chúng Mỹ rằng Mỹ sẽ không bao giờ cho phép sự nổi lên của Trung Quốc đe dọa các lợi ích của Mỹ. Sự kết hợp hai chủ đề này tạo ra cái mà các chuyên gia Trung Quốc gọi là các mối đe dọa bọc đường.
Ví dụ, năm 2005, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert Zoellick thay mặt chính quyền George W. Bush đưa ra một phát ngôn lớn về chính sách với Trung Quốc. Ông đảm bảo với người Mỹ rằng Mỹ sẽ "tìm cách ngăn cản mọi đối thủ cạnh tranh về quân sự để họ không thể đạt sự phát triển đột phá hoặc có các năng lực khác có thể giành quyền bá chủ khu vực hay có cách hành động chống lại Mỹ và các nước bạn hữu khác". Nhưng ông cũng giải thích rằng sự nổi lên của Trung Quốc không phải là một mối đe dọa vì Trung Quốc "không tìm cách phổ biến các hệ tư tưởng chống Mỹ và cực đoan", "không đặt mình trong một sự hấp hối của chủ nghĩa tư bản", và "không cho rằng tương lai của mình phụ thuộc vào sự thay đổi trật tự căn bản của hệ thống quốc tế". Trên cơ sở này, ông nói, hai bên có thể "có quan hệ hợp tác".
Nhưng sự hợp tác có thể phụ thuộc vào nhiều điều kiện. Trung Quốc cần phải giảm nhiệt của cái mà ông gọi là "một chảo lửa lo lắng" tại Mỹ về sự nổi lên của Trung Quốc. Trung Quốc cũng nên "giải thích rõ các chi tiêu quốc phòng, các ý định, học thuyết và các cuộc diễn tập quân sự của mình"; giảm thặng dư thương mại với Mỹ; và hợp tác với Washington trong các vấn đề Iran và Triều Tiên. Trên tất cả, Zoellich cố vấn, Trung Quốc nên bỏ "kiểu chính trị khép kín". Theo quan điểm của Mỹ, ông nói, "Trung Quốc cần một quá trình chuyển giao chính trị hòa bình để làm cho chính phủ của mình chịu trách nhiệm trước nhân dân".
Các ý tưởng tương tự đã được chính quyền Obama nhắc lại với các ngôn từ rất hòa nhã. Trong tuyên bố chính sách lớn đầu tiên của chính quyền này về Trung Quốc, hồi tháng 9/2009, Thứ trưởng Ngoại giao James Steinberg đã đưa vào một ý tưởng về "sự trấn an chiến lược". Steinberg xác định nguyên tắc theo cách sau: "Đúng như chúng ta và các đồng minh của chúng ta đã thấy rõ, rằng chúng ta đang chuẩn bị để đón chào 'sự trở lại' của Trung Quốc... trong vai trò một cường quốc thịnh vượng và thành công, Trung Quốc cũng nên đảm bảo với phần còn lại của thế giới rằng sự phát triển và vai trò ngày càng lớn của mình trên toàn cầu sẽ không làm hại tới an ninh và hạnh phúc của các nước khác". Trung Quốc cần "đảm bảo với các nước khác rằng sự lớn mạnh này không đặt ra một mối đe dọa"; họ cần "tăng cường sự minh bạch về quân sự nhằm trấn an tất cả các nước ở châu Á và toàn cầu về các ý định của mình" và chứng tỏ rằng "họ tôn trọng luật pháp và chuẩn mực quốc tế".
Đối với các chuyên gia Trung Quốc, các tuyên bố như vậy gửi đi một thông điệp rằng Washington muốn hợp tác theo điều kiện của họ, tìm cách răn đe Bắc Kinh phát triển các năng lực quân sự có thể bảo vệ được các lợi ích của họ, và các ý định thúc đẩy thay đổi bản chất của chế độ Trung Quốc.
Rõ ràng, sự nghi ngại của Bắc Kinh về Washington đi ngược lại với thực tế rằng Mỹ đã làm rất nhiều để thúc đẩy sự nổi lên của Trung Quốc. Nhưng đối với các chuyên gia Trung Quốc, lịch sử đem đến một câu trả lời cho câu hỏi khó này. Theo họ, Mỹ đã kiềm chế Trung Quốc lâu chừng nào họ có thể. Khi sự mạnh nổi lên của Liên Xô trở nên cần thiết, Mỹ buộc phải cam kết với Trung Quốc nhằm củng cố cánh tay chống Moscow. Khi Mỹ bắt đầu cam kết với Trung Quốc, họ tin rằng sự cam kết này sẽ biến Trung Quốc thành một nền dân chủ và sẽ có lợi trở lại cho Mỹ, trở thành nền tảng chiến lược trên mảnh đất châu Á mà Washington đã mất năm 1949 khi Cộng sản chiến thắng trong cuộc nội chiến tại Trung Quốc.
Theo quan điểm của Trung Quốc, sự xích lại dần của Washington với Bắc Kinh không xuất phát từ chủ nghĩa lý tưởng và sự khoan dung hào phóng: trên thực tế, Mỹ theo đuổi việc này để có thể tận hưởng từ sự mở cửa kinh tế của Trung Quốc bằng cách vắt ép lợi nhuận từ các đầu tư của Mỹ, tiêu dùng hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc, và vay tiền để hỗ trợ thương mại và bù đắp thâm hụt ngân sách của Mỹ. Khi nhộn nhịp thiết tiệc trên bàn Trung Quốc, các chiến lược gia Mỹ đã bỏ sót nguy cơ của sự nổi lên của Trung Quốc cuối những năm 1990.
Các chuyên gia Trung Quốc tin rằng giờ đây, Mỹ nhận ra Trung Quốc là một mối đe dọa, họ không còn cách nào thực sự để ngăn cản Trung Quốc tiếp tục phát triển. Cố vấn của nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, người vào năm 1991 đưa ra chiến lược "giấu mình chờ thời", giải thích: vậy là chiến lược cam kết của Mỹ đã hỏng. Đối mặt với một Trung Quốc nổi lên quá xa để có thể dừng lại, Mỹ có thể không làm hơn được những gì họ đang làm: đề nghị hợp tác theo cách của Mỹ, đe dọa Trung Quốc, bao vây quân sự, và tiếp tục cố gắng thay đổi chế độ.
Giải quyết một cuộc tấn công thực tế như thế nào?
Bất chấp những quan điểm trên, các chiến lược gia chính của Trung Quốc không cố vấn Bắc Kinh thách thức Mỹ trong tương lai gần. Họ hy vọng Mỹ vẫn là bá chủ toàn cầu trong vài thập kỷ nữa, bất chấp cái mà họ thấy là những dấu hiệu ban đầu của sự suy yếu. Hiện tại, theo Wang Jisi, Hiệu trưởng trường Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học Bắc Kinh, "siêu cường vẫn lớn mạnh hơn, và nhiều cường quốc vẫn nhỏ hơn". Trong khi đó, hai nước đang ngày càng phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và có năng lực quân sự có thể gây hại cho nhau.
Chính sự dễ gây tổn thương lẫn nhau này chứa đựng một hy vọng hợp tác về trung hạn. Nỗ lo ngại của nước này về nước kia khiến họ phải hợp tác với nhau. Tuy nhiên, về lâu dài, giải pháp tốt hơn đối với cả Trung Quốc và phương Tây là tạo ra một sự cân bằng quyền lực mới giúp duy trì hệ thống thế giới hiện nay, nhưng với một vai trò lớn hơn dành cho Trung Quốc.
Trung Quốc có những lý do thuyết phục để tìm kiếm kết cục này. Ngay sau khi họ trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sự thịnh vượng của họ vẫn phụ thuộc vào sự thịnh vượng của các đối thủ của họ trên toàn cầu (và ngược lại), kể cả Mỹ và Nhật Bản. Trung Quốc càng giàu hơn thì họ lại càng phụ thuộc vào sự an toàn của các hải trình, sự ổn định của thương mại thế giới và các chế độ tài chính, không phổ biến vũ khí hạt nhân, kiểm soát sự biến đổi khí hậu và hợp tác vì sức khỏe cộng đồng. Trung Quốc sẽ không tiến lên phía trước nếu các đối thủ của họ không cùng thịnh vượng. Và các chiến lược gia Trung Quốc hẳn phải hiểu rằng các lợi ích cốt lõi của Mỹ - trong luật pháp, sự ổn định khu vực và cạnh tranh kinh tế mở - không đe dọa an ninh của Trung Quốc.
Mỹ nên khuyến khích Trung Quốc chấp nhận sự cân bằng mới này bằng cách vạch ra các đường lối chính sách rõ ràng, đáp ứng các nhu cầu an ninh của chính mình mà không đe dọa tới an ninh của Trung Quốc. Khi Trung Quốc nổi lên, họ sẽ thúc đẩy chống lại sức mạnh Mỹ để tìm các ranh giới ý chí của Mỹ. Nhưng điều này phải được làm một cách chuyên nghiệp bình tĩnh, không bằng các ngôn từ hiếu chiến. Chiến dịch diều hâu nói về các cuộc chiến thương mại và cạnh tranh chiến lược khiến Bắc Kinh gây lo ngại trong khi giảm những nỗ lực cần thiết để nhất trí về các lợi ích chung. Và trong mọi trường hợp, biến ngôn từ như thế thành hành động không phải là một lựa chọn thực tế. Làm như vậy sẽ đòi hỏi sự phá vỡ các quan hệ kinh tế đôi bên cùng có lợi và chi phí rất lớn để bao vây Trung Quốc về chiến lược, và sẽ buộc Trung Quốc phản ứng trái ngược.
Tuy nhiên, các lợi ích của Mỹ trong tương quan với Trung Quốc là không cần tranh cãi và nên được khẳng định: một Trung Quốc thịnh vượng và ổn định, giải quyết vấn đề Đài Loan theo nguyện vọng của người dân hòn đảo này, tự do hàng hải trên các vùng biển xung quanh Trung Quốc, an ninh của Nhật Bản và các đồng minh châu Á khác của Mỹ, một nền kinh tế thế giới mở, và bảo vệ nhân quyền. Mỹ nên ủng hộ những điều này.
Thứ nhất Mỹ phải duy trì ưu thế quân sự của mình tại Tây Thái Bình Dương, bao gồm biển Hoa Đông và biển Đông. Để làm vậy, Washington sẽ phải tiếp tục nâng cấp các năng lực quân sự, duy trì các đồng minh phòng thủ trong khu vực, và tự tin đáp lại các thách thức. Washington nên đảm bảo với Bắc Kinh rằng các động thái này là nhằm tạo ra một sự cân bằng lợi ích chung chứ không phải đe dọa Trung Quốc. Sự đảm bảo đó có thể đạt được bằng cách củng cố các cơ chế hiện nay điều hành sự ảnh hưởng lẫn nhau về quân sự Trung - Mỹ. Ví dụ, Thỏa thuận Tham vấn quân sự Biển hiện tại nên được sử dụng để thiết kế các thủ tục cho phép máy bay và tàu của hải quân Mỹ và Trung Quốc hoạt động an toàn khi ở các vùng ngoại biên gần.
Thứ hai, Mỹ sẽ tiếp tục đẩy lùi các nỗ lực của Trung Quốc nhằm lập lại các cơ chế pháp lý toàn cầu theo hướng không phục vụ lợi ích của phương Tây. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp một loạt các quy định và thể chế toàn cầu giúp xác định sự tồn tại của trật tự thế giới tự do mà Mỹ từ lâu tìm cách duy trì.
Trung Quốc không giành được một tiếng nói ngang với Mỹ trong một Cộng đồng Thái Bình Dương giả định hoặc một vai trò trong một chế độ quản lý toàn cầu như một thành viên "G-2". Trung Quốc sẽ không điều hành thế giới nếu Mỹ không rời khỏi vị trí này, và sự nổi lên của Trung Quốc sẽ là một mối đe dọa đối với Mỹ và thế giới, nhưng chỉ khi Washington cho phép điều này xảy ra. Đối với Mỹ, chiến lược đúng đắn về Trung Quốc bắt đầu từ trong nước. Washington phải tiếp tục cách tân quân sự, nuôi dưỡng các quan hệ của mình với các đồng minh và các cường quốc hợp tác khác, tiếp tục hỗ trợ một lĩnh vực giáo dục cao ưu việt, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ Mỹ khỏi gián điệp và trộm cắp, và giành lại sự tôn trọng của người dân toàn thế giới. Chừng nào Mỹ giải quyết được các vấn đề này và giữ vững các giá trị của mình, thì họ mới có thể quản lý được sự nổi lên của Trung Quốc./.
Châu Giang theo Viet-studies.info