Từ những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, những người bệnh phong ở khu vực miền Nam được một tổ chức nhân đạo của Na Uy hỗ trợ đưa về vùng đất Long Thành định cư lập nghiệp và đặt tên làng là Bình Minh, với mong ước cuộc sống của họ, sau khi được điều trị dứt bệnh, sẽ như một ngày mới, bắt đầu bằng những tia nắng đẹp.

Những tia nắng ấm

Ông La Văn Thuận, thế hệ đầu tiên của làng với đôi tay co quắp nhấp ngụm trà, nhớ lại: "Ngày trước, đi ra chợ mua hàng còn bị xua đuổi, huống chi bán hàng hay đi học, đi làm cùng với người lành lặn. Trong làng chủ yếu sống theo kiểu tự cung tự cấp, mua bán, trao đổi nội bộ với nhau. Khi cần mua hoặc bán cái gì ra ngoài, phải cải trang, đi thật xa hoặc chấp nhận bán với giá rẻ mạt".

Con người và mọi thứ xuất phát từ làng Bình Minh đều bị người ngoài dè chừng, xa lánh, chỉ duy có một thứ không bị khước từ, đó là những mớ củi đã được người làng phong nung thành than, do cách nghĩ của người mua là vi trùng không thể chịu nổi ngọn lửa được nung liên tục nhiều ngày liền nên cứ yên tâm sử dụng (!?). Lúc đầu, cả làng chỉ có vài ba hộ làm nghề này, đi đầu có thể kể hộ nhà ông Thuận, ông Năm Vẹn. Khi than củi được thị trường chấp nhận, làng Bình Minh như bừng sáng, người biết nghề chỉ người chưa biết và cùng nhau vượt khó. Bà Hứa Thị Kim Hòa, thuộc thế hệ thứ nhất của làng kể: "Người trong làng dù không cùng quê hay họ hàng nhưng rất thương yêu, đùm bọc nhau do có cùng cảnh ngộ và sống trong một làng nên ai khó khăn đều được san sẻ. Như tôi trước làm than thuê cho nhà ông Thuận, được ổng chỉ nghề để tự làm, nhờ vậy mà cuộc sống đỡ vất vả hơn".

Mưu sinh với nghề
Nhắc lại chuyện đời của mình, những người dân thuộc thế hệ thứ nhất, thứ hai không khỏi ngậm ngùi. Hầu như từ thế hệ thứ hai của làng đã không còn bệnh và không bị bất cứ một di chứng nào trên người, nhưng do "lý lịch" nên đa số họ bị mù chữ vì không thể đến trường vì bị kỳ thị, cuộc sống vì thế cứ khó khăn từ đời này qua đời khác.

Những phận người quắt queo hầu như chỉ quẩn quanh trong làng bên những lò than rực lửa, nóng toát mồ hôi để quyết thay đổi số phận. Và thật vậy, cuộc sống của họ đã bắt đầu sang trang, khi kinh tế ngày một khá hơn và nhận thức của xã hội về căn bệnh này ngày một nâng cao, không những bớt bị kỳ thị mà còn được tương trợ, tạo điều kiện nhiều hơn. Thế hệ thứ ba, thứ tư được đến trường học hành đầy đủ, nhiều người học đến cử nhân, kỹ sư...

Chị Võ Thị Ngọc Thúy, trưởng ấp 5, cho biết: "Hiện nay, cả làng có khoảng 645 nhân khẩu, từ thế hệ thứ hai trở đi đã không nhiễm vi trùng phong và sống lành lặn như người bình thường. Con em trong làng đều được đến trường và học lên cao, nhiều hộ đã có con cái thành đạt, làm việc tại các thành phố lớn... Cả làng có khoảng 150 hầm than, trung bình mỗi ngày xuất khoảng 5 tấn, tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động trong làng và các tỉnh lân cận. Có thể nói, nhờ có nghề làm than mà cuộc sống người dân làng Bình Minh đã thoát nghèo và tươm tất hơn".

Tinh khiết một làng nghề

Theo người trong nghề, ngày trước, than được làm bằng cách phát hỏa, dùng lửa đốt gỗ tươi trong hai ba ngày rồi làm nguội thành than. Tuy nhiên, phương pháp này cho năng suất thấp vì tốn nhiều gỗ, lại rất cực và chuyện quá lửa củi biến thành tro xảy ra như cơm bữa. Sau nhiều năm bám trụ với nghề, người làng Bình Minh không ngừng cải tiến và đã xây những hầm than với sức chứa 6-10 tấn gỗ tươi/lò, cho ra lò 2 tấn than, thay vì vài trăm ký như trước. Cách làm cũng đổi khác, củi tươi được chất đầy hầm kín, có 4 - 5 lỗ thoát hơi và một cửa lò để chụm củi đốt lửa lấy hơi hầm gỗ tươi chín thành than. Muốn ra một mẻ than phải mất ít nhất 45 ngày, 30 ngày đầu người thợ phải chụm củi liên tục khoảng 2-3 tiếng/lần để có đủ hơi làm chín gỗ, 15 ngày cuối là giai đoạn làm nguội và tắm than (dẫn nước chạy quanh hầm than để làm nguội).

Kể qua có vẻ đơn giản nhưng không phải ai cũng có thể làm được những mẻ than còn nguyên lõi, cháy đượm như người làng Bình Minh. Anh La Văn Sến, con trai ông La Văn Thuận, giải thích : "Cái khó của nghề là phải nhận biết khi nào thì than chín để làm nguội, vì nếu củi chưa chín mà làm nguội, khách hàng sẽ chê vì than nhiều khói, còn nếu quá lửa than sẽ mất lõi, nhẹ cân, coi như lỗ vốn hoặc cháy rụi thành tro thì không gì cứu vãn. Người lành nghề chỉ cần nhìn lỗ hơi, ngửi mùi khói là biết than hầm được bao nhiêu ngày, đã chín hay còn sống".

Anh Văn Thành, một cư dân trong làng thổ lộ: "Ngày trước chúng tôi còn cực hơn nhiều do phải cưa, chẻ củi, giờ có cưa máy đã đỡ hơn nhưng cũng có nhiều lao động từ tỉnh khác đến làng làm việc được vài ba tuần hoặc hơn tháng là bỏ việc, do chịu cực, chịu nóng không nổi. Người làng Bình Minh vì coi đây là kế sinh nhai duy nhất nên phải cố".

Nguyên liệu để làm là cây đước, được mua ở các lâm trường, trung bình bốn tấn củi cho ra một tấn than. Củi đốt lò than là những cây điều già, hoặc những cây ăn trái "hết đát". Theo tính toán, mỗi ký than họ lời khoảng 500 đồng, gặp mùa mưa củi ướt phải hầm dài ngày hơn hoặc nước ngầm lên ngập lò, không thể ra than (một số lò bị ngập phải nghỉ 3 tháng mưa - P.V) thì đồng lời ít hơn. Cái chính là những lò than đang giải quyết cho gần 1.000 lao động với lương từ 100 - 120 ngàn đồng/ngày, số tiền không cao nhưng so với trước kia phải ăn đong từng bữa, người làng Bình Minh đã cảm thấy sung túc hơn rất nhiều.

Những năm gần đây, người dân đã hạn chế việc dùng than làm chất đốt vì đã có gas, tuy nhiên, nhu cầu dùng than phục vụ các món nướng vẫn còn rất nhiều ở các thành phố lớn và người dân vùng nông thôn vẫn dùng than làm chất đốt chính nên làng phong Bình Minh vẫn còn nổi lửa mỗi ngày, dù không còn "hoàng kim" như xưa.

Thăm làng Bình Minh, chúng tôi không chỉ cảm nhận được ý chí vươn lên và hòa nhập vào cộng đồng của người làng, mà còn nhận ra sự tinh túy, công phu nơi từng thước than họ tinh luyện. Có lẽ, với người làng Bình Minh, hầm than là cuộc sống của họ.

Theo Hồng Hạnh/Báo Văn Hoá