Theo bà Đặng Hồng Nhung, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, thời gian qua, hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) cơ bản được tận dụng khai thác, phát huy để phục vụ tăng trưởng xuất khẩu: Hầu hết các thị trường mà Việt Nam có FTA đều tăng trưởng tốt. 

Đặc biệt, các thị trường CPTPP (Hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam) tăng trưởng cao, ổn định. Trong 11 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Canada tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước, sang EU tăng 7,9%... 

Cam ket FTA.jpg
Ảnh minh họa.

Hàng hóa của Việt Nam đã hiện diện ở một số thị trường có chất lượng, tiêu chuẩn cao như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Nhật Bản, EU…, cho thấy hàng Việt xuất khẩu đã có cải thiện về chiều sâu, chất lượng.

Hiện tại, cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, dần đa dạng hóa hơn, nhưng vẫn phụ thuộc một số thị trường lớn, chủ yếu là các quốc gia Đông Bắc Á, Hoa Kỳ, ASEAN và EU. Ví dụ, Hoa Kỳ chiếm 45% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, 3 thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. 

“Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn tập trung cao vào một số thị trường lớn, trong khi cán cân thương mại với các thị trường chưa thực sự cân đối, làm gia tăng mức độ dễ tổn thương trước các biện pháp phòng vệ thương mại và các cú sốc từ bên ngoài”, bà Nhung nhận định.

Trong khi đó, một số ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam có nguy cơ cao trở thành đối tượng bị một số quốc gia tiến hành điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cao, chẳng hạn: kim loại và các sản phẩm kim loại (các sản phẩm thép, các sản phẩm nhôm, các sản phẩm đồng), ngành cao su và chất dẻo, ngành hóa chất, ngành vật liệu xây dựng, ngành gỗ...

Mặt khác, doanh nghiệp xuất khẩu Việt đang đối diện với không ít thách thức liên quan đến sản xuất xanh và bền vững: Không chỉ xanh hóa sản xuất, mà phải xanh hóa toàn bộ chuỗi cung ứng, tiến đến trung hòa phát thải (Net Zero).

“Bên cạnh hoạt động đàm phán FTA mới để mở cửa thị trường, chúng tôi nhận thấy việc hỗ trợ doanh nghiệp hiểu các cam kết mà chúng ta đã có được để tận dụng được các cam kết đó cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Thực tế thời gian qua, khi chúng tôi nói chuyện với một số doanh nghiệp, thì không nhiều doanh nghiệp hiểu rõ quyền lợi của mình khi thực thi các FTA. Doanh nghiệp xin chứng nhận xuất xứ theo yêu cầu của các hiệp định vẫn chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của khách hàng nước ngoài chứ không phải chủ động doanh nghiệp tìm hiểu và tận dụng được cơ hội”, bà Nhung nhấn mạnh.

Để cải thiện tình trạng này, bà Nhung cho rằng thời gian tới, các cơ quan hữu quan cần triển khai những chương trình đào tạo chuyên sâu về xuất khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động logistics quốc tế, thương mại số, quản trị rủi ro... cho đội ngũ lãnh đạo và cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp.

Đồng thời tập trung đầu tư nâng cao năng lực cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực như: nghiên cứu thị trường, marketing quốc tế, xây dựng và phát triển thương hiệu, các kỹ năng về đàm phán, giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế… Qua đó từng bước nâng cao vai trò của doanh nghiệp Việt tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đặc biệt, cần đổi mới công tác phát triển thị trường và xúc tiến thương mại gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu thị trường tập trung bao gồm đa dạng thông tin về thị trường, doanh nghiệp xuất khẩu, quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các thị trường để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin một cách kịp thời, chính xác hơn.

“Nên thiết lập các nền tảng dữ liệu thị trường thông minh sử dụng trí tuệ nhân tạo để cung cấp thông tin tùy biến theo yêu cầu của doanh nghiệp”, bà Nhung khuyến nghị thêm.