Sự xâm hại các dòng sông, tàn phá cây cối, nạn ô nhiễm… đang gợi lên trong mỗi người nhiều nỗi niềm, buộc chúng ta phải lên tiếng để gìn giữ một quyền thiêng liêng: Quyền được sống trong môi trường trong lành.
Nhìn ra thế giới
Theo tìm hiểu, đã có hơn 60 quốc gia đã công nhận quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền con người bằng cách quy định trong Hiến pháp – “chiếc vương miện của một nhà nước pháp quyền”. Khi ghi nhận như vậy, cũng có nghĩa là Nhà nước ghi nhận trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường.
Tại Liên Bang Nga, Hiến pháp nước này thừa nhận quyền môi trường tối thiểu của công dân bao gồm quyền tiếp cận thông tin chính xác và được đền bù những thiệt hại đối với sức khỏe con người hay tài sản do vi phạm môi trường gây ra.
Ở Singapore, nếu có hành vi xả rác, dù là một vỏ kẹo nhỏ xíu, bạn sẽ phải tốn một khoản tiền lên tới hàng nghìn đô la Singapore, thậm chí còn có thể bị lao động công ích nhiều ngày, “được” truyền thông ghi nhận và đưa tin.
Tại đây, hành vi gây ô nhiễm môi trường có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, theo Đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật kiểm soát ô nhiễm của quốc gia này, những người vi phạm lần đầu bị buộc tội về hành vi đưa chất thải hoặc các chất độc hại vào nguồn nước ngầm có thể bị phạt tù đến 12 tháng. Đồng hành theo đó là hàng loạt biện pháp chế tài hành chính, bồi thường dân sự,kết hợp với sự giám sát chặt chẽ từ lực lượng chấp pháp nghiêm minh.
Đến đây, chắc ai cũng nghĩ người dân Singapore tôn trọng môi trường vì sợ chế tài. Nhưng theo tác giả, vấn đề chính nằm ở nhận thức, của cả chính quyền và người dân. Những nhà lãnh đạo Singapore thành công là bởi vì họ sớm nhận thức được, quyền sống trong môi trường trong lành là quyền của mỗi con người trên đảo quốc này. Từ đó, họ thực hiện mọi chính sách để người dân cũng ý thức được đấy là quyền của mìnhvà thấm nhuần một triết lý, quyền của người này sẽ gắn với nghĩa vụ của người khác.
Còn nếu ai có một lần được đến với Berlin (Đức), sẽ dễ dàng cảm nhận được diện mạo của một thành phố xanh nhất Châu Âu. Ở đấy, có những công viên tồn tại vài trăm năm, có hàng trăm nghìn cây cổ thụ, những tán rừng và một không khí thật sự trong lành. Bởi Berlin hay những thành phố khác của Đức có một hệ thống luật lệ chặt chẽ, rõ ràng và được thực thi, giám sát rất hiệu quả và nghiêm minh. Những hành vi đốn hạ trái phép những loại cây trong diện bảo tồn, có thể bị phạt tù đến 3 năm.
Ngổn ngang mừng, lo
Tại Việt Nam, đã có những nỗ lực đáng mừng mà chúng ta cần ghi nhận.
Điều đầu tiên, hành lang pháp lý có những cải cách mạnh mẽ trong việc ghi nhận quyền con người về môi trường và đề ra những giải pháp ban đầu mang tính tổng thể để thực thi quyền. Lần đầu tiên Việt Nam chính thức ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền con người mang tính hiến định tại Điều 43 của Hiến pháp năm 2013.
Đây là một sự tiến bộ vượt bậc trong nhận thức của nhà nước, hệ thống chính quyền. Điều đó đồng nghĩa, nhà nước cũng chính thức đưa ra lời cam kết cao nhất và có giá trị nhất trong việc nhận lấy trách nhiệm vốn thuộc về mình.
Điều thứ hai, một số thành quả bước đầu về nỗ lực cải tạo đời sống người dân đô thị đã và đang hiện diện ra. Ai có dịp ghé thăm Sài Gòn vào những ngày này, sẽ thấy Sài Gòn đẹp hơn rất nhiều với sự hồi sinh của kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè và Tân Hóa – Lò Gốm. Nơi đây từng là minh chứng cho ô nhiễm, cho tình trạng quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân Sài Gòn bị tổn hại.
|
Cận cảnh công trường “lấp” sông Đồng Nai chụp vào 22/3/2015. Ảnh: Infonet |
Song những nỗi lo vẫn ngổn ngang…
Nỗi lo thứ nhất, lời cam kết đã được hiến định bị chính quyền, các cơ quan chức năng “lãng quên”, không thực hiện nghiêm túc, đầy đủ.Hệ quả là những vấn đề môi trường, môi sinh ảnh hưởng mật thiết đến đời sống người dân bị xâm phạm, gây nên những bức xúc, bất bình.
Nỗi lo thứ hai, lo cho những con sông đang dần chết. Thời gian qua, người dân Tây Ninh xót lòng đắng dạ nhìn dòng chảy Sông Vàm Cỏ Đông đen ngòm hôi thối[1]. Hàng loạt bè cá – gia tài của người dân nơi đây - tiêu hao, cá nổi trắng bè vì không chịu nổi dòng sông đang chết.
Hay ngỡ ngàng hơn, tại Đồng Nai, một đại công trường ì ầm với một kế hoạch táo bạo đã được triển khai. Lấp một góc sông Đồng Nai để xây dựng khu đô thị nhiều sao. Cả khúc sông trở nên đen ngòm vì sự ì ầm tác động của máy móc, dòng chảy đang mệt nhoài vì sự xâm chiếm của con người. Sông Đồng Nai liệu bao giờ chết và có trở thành một sông Thị Vải thứ hai? May thay, với sự đấu tranh không ngừng của dư luận, dự án đang tạm thời dừng lại.
Hẳn còn nhiều nữa, những con sông đang âm thầm chịu đựng hoặc chết dần bởi sự lơ là giám sát của chính quyền, sự hời hợt trong ý thức của nhiều nhà chức trách, doanh nghiệp và sự dửng dưng của không ít người dân.
Trao quyền lợi thiết thực
Với tư cách là một công dân biết đôi điều về luật pháp, tác giả mong muốn đóng góp một vài khuyến nghị mang tính nguyên tắc:
Thứ nhất, những nhà chức trách cần nghiêm túc triển khai lời cam kết về việc bảo vệ quyền sống trong môi trường của toàn thể người dân. Cần nhanh chóng rà soát, đánh giá toàn diện hiện trạng pháp luật hiện hành về vấn đề bảo vệ môi trường. Sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng lồng ghép cách tiếp cận quyền con người vào việc xây dựng cơ chế pháp lý bảo vệ môi trường.
Thứ hai, nâng cao ý thức của tất cả mọi người trong xã hội, từ “quan”đến dân, không phân biệt thành phần. Trước tiên là thông qua những biện pháp tác động đến tài sản, quyền tự do của những người có hành vi xâm phạm môi trường.
Thứ ba, tạo cơ chế cho mọi thành phần trong xã hội đều có quyền được tham gia một cách tích cực, tự do và có ý nghĩa trong việc lập kế hoạch, quyết định về bất kỳ dự án, công trình hay hành động nào đó có tác động đến môi trường và sự phát triển bền vững. Kèm theo đó, phải có những quy định cụ thể về biện pháp xử lý khi quyền này bị cản trở.
Thứ tư, trao cho mọi người quyền lợi gắn với lợi ích kinh tế thiết thực. Cụ thể hơn,công dân, cộng đồng dân cư và những thành phần khác có quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại từ những hành vi gây ô nhiễm môi trường. Việc thực thi quyền đòi bồi thường thiệt hại này được triển khai thông qua nhữnghiệp hội, tổ chức bảo vệ môi trường do chính những cộng đồng dân cư tự chủ và quản lý.
Lưu Minh Sang (Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM)
Quyền được sống trong môi trường trong lành là gì? Quyền được sống trong môi trường trong lành được hiểu nôm na là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được sống trong môi trường sạch đẹp, thuần khiết, chất lượng với hệ sinh thái cân bằng, không có ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng và hoạt động bình thường của con người. Quyền này được xem là một phần của quyền con người và đã được ghi nhận bởi những văn bản pháp lý mang tính chất toàn cầu. Đặt nền móng cho sự cụ thể hóa quyền này đó là Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 (Universal Declaration of Human Rights 1948); Nghị quyết của đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1962 về sự phát triển kinh tế và bảo vệ thiên nhiên; các Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966. Đến năm 1972, quyền này được ghi nhận một cách rõ nét thông qua Tuyên bố của Liên hợp quốc tại Stokholm năm 1972 với nội dung: “Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và đầy đủ các điều kiện sống, trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và mai sau”. Nội dung này được ghi nhận tại Nguyên tắc đầu tiên trong Tuyên bố. Tiếp theo đó là sự ghi nhận cụ thể và chi tiết hơn tại hàng loạt các văn bản pháp lý quốc tế có giá trị như: Tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (Rio de Janeiro 1992); Tuyên bố Johannesburg năm 2002 về phát triển bền vững, v.v.. Những dữ liệu trên giúp chúng ta nhận thức rõ rằng dường như cả thế giới đã và đang rất khẩn trương khẳng định, ghi nhận và tìm mọi cách để đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành của tất cả công dân toàn cầu. |
[1] Sông Vàm Cỏ Đông lại ô nhiễm, bốc mùi hôi thối, Báo Tây Ninh, 01/05/2015.