Tiểu học trường làng, trung
học trường huyện, tốt nghiệp đại học tỉnh, hoàn thành luận án tiến sĩ Harvard
chỉ trong một năm rưỡi… thông điệp mà TS Huỳnh Thế Du (giảng viên chính chương
trình giảng dạy kinh tế Fulbright) đưa ra cũng độc đáo như con đường học vấn của
anh: một xã hội lành mạnh là một xã hội thừa nhận bản chất con người và để cho
nó phát triển một cách tự nhiên.
Đâu là kỷ niệm tuổi thơ mà anh nhớ nhất?
Thời bao cấp, hầu hết các gia đình Việt Nam đều khó khăn. Bố mẹ tôi phải nuôi
bảy người con nên còn nan giải hơn. Tuy nhiên, nhà tôi luôn đầm ấm và điều
đặc biệt là bố mẹ gần như không ép buộc chúng tôi bất cứ điều gì. Tôi được
làm những gì mình thích và tự chịu trách nhiệm về những quyết định
của mình. Có lẽ đây là tài sản quý giá nhất mà tôi được bố mẹ dành
cho.
Thời sinh viên của anh thế nào, và đâu là thời khắc khó khăn nhất?
Thời đại học của tôi rất bình thường với kết quả học ở mức trung bình. Tôi
quyết định mọi thứ và chúng cứ bình bình trôi qua nên bây giờ được hỏi
đâu là thời khắc khó khăn nhất, thực tình tôi nghĩ không ra!
Động lực nào khiến anh theo nghiệp chữ nghĩa của một ông giáo?
![]() |
Ảnh: Hoàng Tường |
Học xong ngành xây dựng ở đại học Bách khoa Đà Nẵng, tháng 9.1996 tôi đi làm ở
ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) Bình Định được năm năm thì
thấy mình phải đi học thêm một cái gì đó. Tình cờ một anh ở cơ quan
đi học tại chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (FETP) mang thông tin
về. Tôi nộp hồ sơ và đi thi.
Cách học hoàn toàn mới ở FETP làm tôi rất thích nên tôi đã học một cách say
mê. Tháng 6.2002, tôi trở về cơ quan cũ làm việc khoảng nửa năm thì FETP mời
tôi tham gia nghiên cứu và giảng dạy. Cũng may là lúc đó sếp tôi chuyển
từ BIDV Bình Định vào sở giao dịch 2 ở TP.HCM nên kéo tôi theo.
Từ tháng 3.2003, tôi làm việc chính thức ở BIDV và bán thời gian ở FETP.
Đến đầu năm 2005, tôi thấy việc giảng dạy và nghiên cứu phù hợp hơn nên
thôi làm ngân hàng cho dù cơ hội ở BIDV đang rất tốt. Hơn thế, trước đó mấy
tháng tôi cũng nhận được lời mời về điều hành một ngân hàng cổ phần đang
chuẩn bị nâng cấp từ nông thôn lên đô thị.
Học xây dựng ra làm ngân hàng rồi chuyển sang giảng dạy và nghiên cứu về chính
sách công – đúng là việc chọn người chứ người không chọn được việc. Từ kinh
nghiệm của mình, tôi cho rằng đúng chuyên môn ngay từ ban đầu không phải
là yếu tố quan trọng vì khi học xong trung học, rất khó để biết được
ngành gì phù hợp với mình. Khi sang đến Mỹ tôi nhận ra rằng, ngay cả
sinh viên Harvard cũng thế.
Là một giảng viên đại học, anh thấy động lực học và động lực sống của các bạn
trẻ thế nào?
Có ý kiến cho rằng, thế hệ trẻ bây giờ không bằng các thế hệ trước
đây. Họ thiếu động lực học và động lực sống. Tôi thì rất lạc quan về thế hệ trẻ.
Bây giờ họ rất giỏi và dám thể hiện mình. Nhiều bạn có động cơ học và
phong cách sống rất mạnh mẽ. Họ biết tận dụng và nắm bắt các cơ hội cũng như
lợi thế của mình.
Nhìn sự “nổi loạn” của một số bạn trẻ muốn khẳng định mình, sẽ
thấy một vấn đề xã hội rất lớn. Bản chất của con người là ai cũng
vì mình trong khi không ít người trong xã hội chúng ta vẫn quan niệm
rằng con người có thể, thậm chí là phải vì người khác. Con cái phải
thế này thế kia mà thực chất là phải vì bố mẹ. Ở cơ quan phải nói
vì tập thể, vì cơ quan. Nếu ai dám nói là tôi sống, tôi làm việc vì
tôi thì bị cho là ích kỷ, cá nhân.
Thực ra, con người có thể vì người khác, vì cái chung trong một số bối
cảnh đặc biệt trong ngắn hạn như đối diện một mất một còn trong chiến
tranh chẳng hạn. Thời chiến, người ta có thể dỡ cả nhà của mình để
xây chiến luỹ, nhưng khi trở lại với cuộc sống hàng ngày, chẳng ai
chịu thiệt dù nửa viên gạch. Sẽ khập khiễng nếu lấy bối cảnh thời
chiến để nhìn thời bình.
Để tạo động lực cho người trẻ, theo tôi là nên để cho họ được theo đuổi những gì
mà họ thích, họ đam mê. Tuy nhiên, cũng cần phải cho mỗi người thấy được trách
nhiệm cũng như điều hơn lẽ thiệt trong mỗi hành động hay quyết định của mình.
Nói một cách đơn giản: anh có quyền làm bất cứ điều gì, nhưng anh phải chịu
trách nhiệm về những việc làm của mình.
Theo anh, điều tiên quyết để người trẻ say mê sáng tạo, là gì?
Được làm những việc mình thích, mình đam mê.
Vừa bảo vệ thành công luận văn tiến sĩ tại Harvard, anh có thể giới thiệu qua
luận văn của mình?
Luận văn của tôi với tiêu đề “Chuyển đổi ở TP.HCM: Những vấn đề trong quản lý
tăng trưởng”, tập trung vào bốn vấn đề chính: vai trò thực chất của quy hoạch đô
thị; tính ưu việt cũng như những thách thức của cấu trúc nhà phố – nhà hẻm; phát
triển các khu đô thị mới; những thách thức trong tái phát triển khu trung tâm
hiện hữu ở TP.HCM.
Có hai điểm khác biệt trong luận văn này. Thứ nhất, đây là một trong những
nghiên cứu hiếm hoi phân tích về phát triển đô thị ở TP.HCM một cách tổng thể,
nhất là từ Đổi mới đến nay. Thứ hai, các bằng chứng thực nghiệm về những lý
thuyết đô thị từ các nước phát triển đã được tìm thấy ở một nền kinh tế chuyển
đổi và đang phát triển.
Nghe nói anh là người đầu tiên bảo vệ luận văn tiến sĩ ở chương trình này
trong vòng một năm rưỡi?
Tôi nghiên cứu về phát triển đô thị trong chương trình tiến sĩ ba năm (Doctor of Design) của trường Thiết kế Harvard (Harvard Graduate School of Design). Nhờ may mắn và những điều kiện thuận lợi khác nên tôi đã có thể bảo vệ luận văn sớm hơn và điều này cũng có những điểm lợi. Giờ đây tôi có nhiều thời gian hơn để làm những thứ mình thích thay vì “phải học” để hoàn thành chương trình. Thêm vào đó, gánh nặng tài chính cũng nhẹ đi rất nhiều.
Theo anh, ưu điểm của hệ thống
giáo dục Hoa Kỳ là gì?
Hệ thống giáo dục ở Hoa Kỳ cho mỗi cá nhân phát huy tối đa khả năng
sáng tạo và năng lực của mình. Ai cũng có thể nghĩ khác và làm khác. Rất
nhiều vấn đề dường như không có đáp án chung nên các câu trả lời trái
ngược cùng được đánh giá cao là chuyện thường tình. Tính hợp lý trong các
lập luận được đặt lên hàng đầu chứ không phải đúng hay sai. Nói một cách
khác là con người được dạy cách tư duy “vừa là... vừa là...” chứ
không phải “hoặc là… hoặc là...” Mỗi sự vật, mỗi người đều có mặt này mặt
kia chứ không có chuyện người tốt thì không có điểm không hay và người xấu thì
không có điểm tốt.
Điểm quan trọng khác trong hệ thống giáo dục Hoa Kỳ là họ dạy cho mỗi
người biết coi trọng bản thân và phải biết được những rủi ro trong các
hành động của mình. Lời khuyên đối với những tình huống nguy hiểm đang xảy
ra trước mắt không phải là xả thân cứu người, mà là nếu không có chuyên
môn về lĩnh vực đó và không có công cụ hỗ trợ thì nên tránh xa. Mỗi người phải
biết lượng sức mình, chớ có anh hùng rơm.
Đây là một triết lý rất quan trọng và không hề vị kỷ. Mỗi người cần phải nhận
thức được rằng sức khoẻ và sinh mạng của mình là quan trọng nên cần phải cẩn
thận và có lý trí trong các hành động. Điều này sẽ giúp giảm đi những rủi
ro, những tình huống không hay. Phòng bệnh bao giờ cũng tốt hơn.
Xét về mặt kinh tế học, theo anh, để một dân tộc đi lên, cần có những động
lực gì?
Để cho mỗi người được làm việc mình thích. Tôi chưa thấy một đất
nước nào, một dân tộc nào theo triết lý mỗi cá nhân phải vì cái
chung, không được thể hiện cái tôi, không được vì mình mà thịnh vượng.
Những quốc gia thành công là những nơi cá nhân mỗi người được phát
huy, được tôn trọng. Ở đó, các thể chế, luật chơi được thiết kế để
mỗi người tự do chạy theo mục tiêu của cá nhân mình nhưng lợi ích cá nhân
cùng hướng với lợi ích tập thể. Cuối cùng thì cả xã hội đều cùng tốt lên.
Là chủ tịch hội Thanh niên sinh viên Việt Nam tại Hoa Kỳ, theo anh, động lực
quay về đóng góp cho đất nước ở các bạn trẻ như thế nào?
Một chút gì đó về quê hương về đất nước thì ai cũng có. Tuy nhiên, ưu tiên hàng
đầu và thường trực của mỗi người là tương lai của bản thân và gia đình mình. Là
người nghiên cứu về hành vi cá nhân cũng như hành vi tập thể, tôi tin
rằng đa số đều vì mình. Mỗi người khi làm gì đều cân đo, đong đếm
được và mất cho mình. Do vậy, động lực chính để du học sinh quay về là
họ kỳ vọng rằng tương lai hay công việc của mình sẽ tốt hơn so với ở
lại chứ không phải vì điều này điều kia.
Đối với nhiều người, khả năng tìm được một việc làm phù hợp chuyên môn
với mức thu nhập ổn định ở nước ngoài là không khó. Tuy nhiên, sau một
thời gian động lực làm việc có thể giảm đi rất nhiều vì sự lặp lại của công
việc. Với một xã hội đã ổn định thì khả năng đột biến lớn là rất
khó. Trong khi, với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, những cơ hội tạo
ra đột biến lớn rất nhiều.
Hơn thế, ở “xứ người” phân biệt đối xử, mình thuộc nhóm thiểu số vẫn
là một vấn đề. Có được một việc làm ổn định thì không khó, nhưng để
có thể vươn tới đỉnh cao trong một lĩnh vực nào đó thì mình phải nỗ
lực lớn hơn những người thuộc nhóm “đa số” rất nhiều.
Tuy nhiên, tôi xin nói rõ rằng những người chưa về không có nghĩa là họ
thờ ơ hay không có đóng góp cho quê hương, đất nước. Trên thực tế, nhiều
người ở lại nhưng có những đóng góp rất lớn cho đất nước bằng những việc làm cụ
thể. Ở đâu tốt cho mình thì nên chọn ở đó.
Đối với mỗi người, làm ở đâu là phụ thuộc vào công việc hiện tại và triển vọng
tương lai. Tuy nhiên, tôi thấy có hai vấn đề hiện nay:
Thứ nhất, những nước phát triển là nơi có đông đảo du học sinh trở về. Ngược
lại, nếu một nước có nhiều du học sinh ở lại bên ngoài sẽ thành “quán quân về
kiều hối” và rất khó phát triển.
Thứ hai, đối với mỗi cá nhân, được làm việc trong môi trường, văn hoá của mình,
mình thuộc nhóm đa số sẽ dễ phát huy khả năng và thành đạt hơn. Tuy nhiên, mỗi
người khi trở về cần có một khoảng thời gian nhất định để thích ứng. Đơn thân
độc mã rất dễ nản và bị hất ra khỏi hệ thống.
Đây là hai trong những lý do chính để du học sinh chúng tôi cùng thành lập hội
Thanh niên sinh viên Việt Nam tại Hoa Kỳ, để mỗi thành viên có thể phát huy tốt
nhất khả năng bản thân và đạt được mục tiêu của mình nhưng cũng tốt cho xã hội
nói chung mà ở đây cụ thể là Việt Nam.
Như vậy, thay vì kiềm toả nhau, mỗi chúng ta hãy chấp nhận sự khác biệt của
những cá nhân xung quanh và tôn trọng ý nguyện phát triển riêng của họ?
Đúng vậy! Tôi chỉ muốn nói rằng, con người được sinh ra là để vì mình chứ không
phải vì người khác hay vì một cái chung nào đó. Một cách bản năng, hầu hết mọi
người đều hành xử như vậy. Do vậy, một xã hội lành mạnh là một xã hội thừa nhận
bản chất của con người và để cho nó phát triển một cách tự nhiên. Các thể chế
trong xã hội nên được tạo ra để mỗi người được theo đuổi những đam mê hay mục
tiêu cá nhân của mình, nhưng kết quả sẽ góp phần gia tăng phúc lợi cho toàn xã
hội. Hãy để cho mỗi người tự quyết định điều gì là tốt cho họ, điều gì nên làm
và không nên làm chứ không nên tạo ra các thể chế hay cách hành xử mà hầu hết
mọi người phải nói một đằng, làm một nẻo!
-
Theo Lê Ngọc Sơn/ Sài Gòn tiếp thị