Xây dựng hệ thống chính sách toàn diện để hiện thực hóa các cam kết quốc tế

Nền tảng quan trọng nhất trong các cam kết quốc tế về quyền văn hóa của Việt Nam là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) mà Việt Nam đã gia nhập từ ngày 24/9/1982. 

Theo Điều 15 của Công ước này, Nhà nước cam kết thừa nhận quyền của mọi người được tham gia vào đời sống văn hóa, hưởng lợi từ tiến bộ khoa học và được bảo hộ các quyền lợi tinh thần, vật chất từ các sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật cá nhân.

Bên cạnh đó, Việt Nam là thành viên tích cực của nhiều Công ước UNESCO quan trọng như Công ước 1972 về bảo vệ di sản thế giới, Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể và Công ước 2005 về bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa. 

Để hiện thực hóa các cam kết quốc tế, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống chính sách toàn diện. 

W-Anh bai dam bao quyen van hoa.jpg
PGS. TS Đỗ Thị Thanh Thủy, Viện Văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch Việt Nam.

“Hệ thống chính sách văn hóa Việt Nam tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng toàn diện, thống nhất và gắn với thực tiễn, nhằm bảo đảm quyền tiếp cận và thụ hưởng văn hóa của mọi tầng lớp nhân dân”, PGS. TS Đỗ Thị Thanh Thủy, Viện Văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch Việt Nam nhận định.

Những năm gần đây, các văn bản chính sách về lĩnh vực văn hóa ngày càng được chú trọng bổ sung, hoàn thiện theo cách tiếp cận đa chiều... Văn hóa được nhìn nhận như nguồn vốn xã hội, củng cố bản sắc dân tộc và sự gắn kết cộng đồng.

Theo PGS. TS Đỗ Thị Thanh Thủy, quyền văn hóa tại Việt Nam hiện nay được nhìn nhận hài hòa với các chuẩn mực quốc tế qua 5 khía cạnh chính gồm: Quyền được tham gia và hưởng thụ văn hóa; Quyền được tiếp cận văn hóa và các cơ sở văn hóa; Quyền được tự do sáng tạo, thể hiện và thực hành văn hóa; Quyền được tôn trọng sự khác biệt mà không bị kỳ thị; Quyền được bảo hộ các quyền lợi về tinh thần và vật chất từ sáng tạo cá nhân.

“Nhân dân không chỉ là đối tượng cần được thụ hưởng các giá trị văn hóa mà hơn nữa cũng chính là chủ thể gìn giữ, sáng tạo và bồi đắp nền văn hóa của dân tộc”, bà Thủy nhấn mạnh.

Những thành tựu thực tiễn trong bảo tồn và tiếp cận văn hóa

Thực thi cam kết quốc tế về di sản, Việt Nam đã đạt những con số ấn tượng. Tính đến năm 2025, cả nước có hơn 40.000 di tích và gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, trong đó có 36 di sản được UNESCO công nhận/ghi danh. Các di sản thế giới như Quần thể di tích danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc (vừa được ghi danh tháng 7/2025) không chỉ bảo tồn giá trị nhân loại mà còn thúc đẩy kinh tế địa phương, tạo sinh kế cho người dân.

Bên cạnh bảo tồn truyền thống, việc đảm bảo quyền văn hóa trong kỷ nguyên số cũng là một ưu tiên hàng đầu. Tính đến đầu năm 2024, Việt Nam có hơn 78 triệu người dùng Internet, chiếm gần 80% dân số. 

Ngành văn hóa đã chủ động ứng dụng hạ tầng số cho sản xuất và phân phối sản phẩm văn hóa, từ việc số hóa các bảo tàng, nhà hát đến việc phát triển các nền tảng trực tuyến. Điều này đảm bảo quyền tiếp cận văn hóa của người dân luôn được cập nhật và thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu.

Việc thực hiện các công ước về quyền trẻ em (CRC) và người khuyết tật (CRPD) được Việt Nam đặc biệt chú trọng. Luật Người khuyết tật năm 2010 đã tạo cơ sở pháp lý để nhóm xã hội này tham gia và hưởng thụ văn hóa, thể thao bình đẳng với mọi công dân. Đồng thời, các chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã hỗ trợ cơ sở vật chất, giúp nâng cao mức thụ hưởng văn hóa và giữ gìn phong tục, ngôn ngữ riêng của các dân tộc.

Việc tuân thủ các cam kết quốc tế về đảm bảo quyền văn hóa giúp Việt Nam xây dựng một nền văn hóa "thống nhất trong đa dạng", lấy con người làm trung tâm, tạo nên sức mạnh nội sinh quan trọng, gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) mà Việt Nam đã cam kết với Liên Hợp quốc.