Vừa mới đây, Thượng viện Mỹ đã thông qua dự luật TPA, cho phép Tổng thống “quyền đàm phán nhanh” trong các Hiệp định thương mại quốc tế quan trọng, điển hình như Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Sự kiện này cũng nhắc nhở các nước tuyên bố tham gia TPP, như Việt Nam, cần có những bước chuẩn bị cuối cùng cho nền kinh tế trước cánh cửa của hiệp định được coi là “định hình kinh tế thế giới trong thế kỷ 21”.
Lơ mơ trong biển lớn
Trong tất cả những ngành nghề, chăn nuôi được đánh giá là có triển vọng bi quan nhất khi Việt Nam tham gia TPP. TS. Trần Đình Thiên[1], Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cho rằng tiền đồ của chăn nuôi trước “biển lớn” TPP “tối đen như đêm ba mươi”.
TPP không đơn giản là một hiệp định thương mại, bởi nó chỉ có 5 điều khoản (trong tổng số 29 điều) là liên quan trực tiếp đến thương mại. Những vấn đề khác, như quy định về giống, sở hữu trí tuệ, quyền của doanh nghiệp, lao động,… sẽ có tác động lâu dài hơn rất nhiều trong việc định hình thể chế trong thị trường.
Trong sân chơi với những quy tắc chặt chẽ như vậy, những nhà sản xuất mang mún, nhỏ lẻ, yếu thế rõ ràng là rơi vào tình thế bất lợi lớn.
Chúng ta lo lắng nhiều đến vấn đề cạnh tranh về giá sau khi TPP được hiện thực hoá. Nhưng có lẽ điều đáng lo hơn nằm ở luật chơi mới, đặc biệt trong hoàn cảnh phần lớn nông hộ của Việt Nam là nhỏ lẻ.
Theo điều tra của Tổng cục Thống kê (năm 2011), gần 90% số nông hộ chăn nuôi (cả bò, lợn, gà) là quy mô nhỏ lẻ (dưới 10 con với đàn lợn, và 100 con với gia cầm). Họ sẽ đối phó như thế nào với các doanh nghiệp nông nghiệp đa quốc gia, những nông dân được công nghiệp hoá đến “tận răng” và sở hữu hàng nghìn hecta ở Mỹ, Canada, Úc, và New Zealand?
Cùng với nông hộ nhỏ lẻ, khó khăn sẽ dồn tiếp vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành. Trong một hội nghị gần đây về triển vọng của chăn nuôi Việt Nam khi gia nhập TPP và AEC mà tôi tham dự, đại diện của các doanh nghiệp nhỏ tỏ ra bi quan với TPP.
Chẳng hạn, bà Dương Thị Thành Hà, Giám đốc Công ty TNHH TM-DV Minh Đăng, đặt vấn đề, từ khi tham gia vào WTO đến nay, chúng ta đã được gì vẫn chưa ai nói rõ, giờ tham gia vào TPP không biết sẽ ra sao. Vì vậy, bà Hà chỉ mong mỏi rằng làm sao thì làm, đừng để khi tham gia vào TPP, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các hộ chăn nuôi Việt Nam không bị đẩy “ra đường”... [2]
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Sau đó, nhập khẩu thịt lợn tươi, ướp lạnh, đông lạnh của Việt Nam đã tăng sốc, từ 104 nghìn USD trong năm 2007 vọt lên đến hơn 22 triệu USD năm 2008[3], với Mỹ và Canada chiếm hơn một nửa. Cùng với đó là hàng loạt các nông sản khác đổ vào Việt Nam sau khi rào cản thuế nhập khẩu được xoá bỏ. Không chuẩn bị kĩ, nhiều doanh nghiệp Việt đã phải treo cờ trắng trên sân nhà.
Các cường quốc chăn nuôi thế giới, như Mỹ, Canada, Úc, và New Zealand, đều là thành viên của TPP, bởi vậy, khi dỡ bỏ hàng rào thuế quan thì khả năng nhập khẩu thịt vào Việt Nam chắc chắn sẽ tăng. Ước tính của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) cho thấy sau TPP, xuất khẩu thịt lợn của Mỹ sang Việt Nam sẽ tăng gấp 43,2 lần năm 2014, từ 2,3 triệu USD lên 100 triệu USD.
Trong các tiểu ngành của chăn nuôi, vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt nhất khi Việt Nam vào TPP là thịt gà. Hiện tại, đây là sản phẩm mà mức thuế nhập khẩu từ Mỹ là 20%, khi TPP được hiện thực hoá, rào cản thuế quan này sẽ không còn. Trong khi đó, Việt Nam nhập 95 triệu USD giá trị thịt gia cầm trong năm 2014, chiếm gần 1 nửa kim ngạch nhập khẩu thịt các loại.
Trước ngưỡng cửa hội nhập, ngành chăn nuôi của VN đối mặt nhiều thử thách. Ảnh minh họa: SGGP |
“Chính sách trên trời, cuộc đời dưới đất”
Để hạn chế các tác động tiêu cực của TPP lên ngành chăn nuôi, đặc biệt là với các nông hộ nhỏ lẻ, các chính sách hỗ trợ hiệu quả là điều rất cần thiết. Chúng ta không thiếu những chính sách như vậy, nhưng vấn đề vẫn là làm sao để thực thi. Không những vậy, hiện một số chính sách và chủ trương lại có vẻ mâu thuẫn với nhau.
Nhà nước khuyến khích phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại, áp dụng công nghệ cao, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp cho rằng không có cơ chế phù hợp để những người thực hiện được hưởng quyền lợi. Chẳng hạn, có đại diện doanh nghiệp chia sẻ, thủ tục để nhận được hỗ trợ phức tạp đến nỗi họ “thà không nhận đi cho được việc”.
Áp dụng mô hình trang trại, chăn nuôi tập trung còn đòi hỏi hai điều kiện tiên quyết: đất đai và tư bản (vốn). Hiện chúng ta vẫn giữ chính sách hạn điền cho đất SXNN, khiến việc tích tụ diện tích đất đủ để sản xuất hiệu quả còn gặp rất nhiều khó khăn. Với những vùng được quy hoạch chăn nuôi tập trung, các doanh nghiệp lại gặp khó khăn do cơ sở hạ tầng chưa được phát triển đầy đủ.
Về vốn, mặc dù có nhiều chương trình hỗ trợ cho nông dân, doanh nghiệp (ví dụ như Nghị định 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp), tuy nhiên trên thực tế con đường nhận vốn ưu đãi vẫn còn “gian nan”.
WTO được coi là thời kì hội nhập 1.0, là bước “thử nghiệm”. Với TPP, chúng ta không còn có cơ hội quay đầu nữa, mà phải thực sự đối diện với những đối thủ sừng sỏ.
Xây kiềng ba chân
Trong thời đại kinh tế toàn cầu, hội nhập và tự do thương mại là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, điều quan trọng là phải có những sự chuẩn bị kĩ càng nhất cho “sóng lớn”.
Muốn giải quyết vấn đề sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, cần phải tạo ra cơ chế để các nông hộ có thể liên kết với nhau hoặc với doanh nghiệp, để tạo thành khu vực sản xuất có quy mô lớn hơn. Chỉ như vậy, nông hộ mới có thể đủ sức áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại với chi phí thấp, nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Hiện chúng ta đang tập trung xây dựng mô hình hợp tác xã (có hẳn Luật hợp tác xã 2012 để điều chỉnh). Tuy vậy, người viết cho rằng không nên gò bó nông dân vào hình thức liên kết này, mà tạo điều kiện để họ lựa chọn mô hình liên kết phù hợp với khả năng và nhu cầu của mình. Một số mô hình liên kết khác như tổ hợp tác, hợp tác với doanh nghiệp,…đã thành công, nhưng lại không nhận được nhiều hỗ trợ do không phải là “mô hình điểm”.
Về phía nhà nước, điều quan trọng vẫn là kéo những chính sách “trên trời” trở về mặt đất, bằng việc tạo ra cơ chế tham vấn, phản biện chính sách hiệu quả hơn. Để làm được điều này, tôi cho rằng cần cho phép nông dân và doanh nghiệp tư nhân nhiều quyền hơn trong việc thiết lập các tổ chức đại diện cho tiếng nói của mình, từ đó tạo ra các “máy phát tín hiệu” để phản hồi chính sách.
Với doanh nghiệp, nhiệm vụ quan trọng nhất của họ, ngoài tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động, là phải xây dựng được chuỗi giá trị nông sản chặt chẽ từ sản xuất đến tận tay người tiêu dùng. Chỉ khi tối đa hoá hiệu quả chuỗi giá trị, họ mới cho ra được những sản phẩm có chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, và có giá cả hợp lý. Đây là nút thắt mà nhà nước sẽ cần trợ giúp doanh nghiệp để giải quyết.
Khi ba “nhà” thực hiện được tốt những nhiệm vụ của mình, thế kiềng ba chân này sẽ đủ để cho ngành chăn nuôi đứng vững trước cơn sóng TPP sắp tới.
Nguyễn Khắc Giang (Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách – VEPR)
--------