Nhiều doanh nghiệp sản xuất tấm lợp phibro xi măng đầu tư hàng chục tỷ đồng vào công nghệ tự động và khép kín nhằm hạn chế sự ảnh hưởng đến môi trường, tiết kiệm tài nguyên trong quá trình sản xuất.

Quy trình sản xuất tấm lợp phibro xi măng

Theo Hiệp hội tấm lợp Việt Nam, quy trình sản xuất tấm lợp phibro xi măng chia làm 4 công đoạn: nhập nguyên liệu, chuẩn bị phối liệu, sản xuất tấm lợp và dưỡng hộ. Trong đó, cắt vỏ bao amiăng trắng và trộn phối liệu là khâu dễ phát tán bụi nhất, nhưng các khâu này được thực hiện tự động và khép kín tại hầu hết các nhà máy. Các nhà máy cũng trang bị hệ thống phun ẩm nhằm khống chế nồng độ bụi trong khống khí ở mức 1 sợi/cc theo quy định của Nhà nước.

Công đoạn nhập nguyên liệu

Theo quy định quốc tế, amiăng trắng được đóng gói dưới dạng nén và hút chân không trong bao bì PP (polypropylene) với ít nhất 2 lớp. Các bao amiăng này được nhập về nhà máy và lưu trong kho kín, sau đó theo băng tải đến các vị trí mở bao để đưa vào máy nghiền trộn. Trong máy mở và huỷ bao, amiăng được tách ra khỏi bao và chuyển vào silô chứa; vỏ bao được huỷ bằng cách nghiền nhỏ rồi chuyển vào silô, được dùng như nguyên liệu đầu vào.

Công đoạn chuẩn bị phối liệu

Amiăng sau định lượng sẽ được cắt bằng máy và đổ thẳng vào máy nghiền trộn. Những máy nghiền này có thể hoạt động với sợi khô, sợi ướt hoặc dạng huyền phù, có thể hoạt động độc lập hoặc phối hợp một vài máy với nhau. Sau khi xử lý, amiăng được đưa theo hệ thống băng tải vào bể trộn hoặc nạp vào bao tải vận chuyển đến bể trộn cùng hỗ hợp xi măng.

Công đoạn sản xuất tấm lợp

Phối liệu amiăng - xi măng dạng huyền phù được bơm vào bể chứa hỗn hợp nguyên liệu hoặc máy khuấy hỗn hợp, sau đó được đưa vào các bể xeo cán. Trong mỗi bể có 1 ống trụ bọc lưới thép và quay liên tục trong hỗn hợp amiăng - xi măng, lớp mỏng amiăng-xi măng hình thành trên lớp lưới và được chuyển sang hệ thống băng tải nỉ vòng. Tại đây, khoảng 75% lượng nước được tách ra và lớp amiăng này được chuyển đến máy quay tang trống.

Các lớp này được cuốn quanh tang trống đến khi đạt một độ dày nhất định thì máy sẽ tự động dừng lại và tấm amiăng bán thành phẩm được cắt theo kích thước yêu cầu (thông thường 1 tấm có kích thước: 0,9m x 1,52m, diện tích khoảng 1,36m2).

Các tấm amiăng ướt được chuyển tự động hoặc thủ công (bằng các trục gỗ) sang bộ phận tạo hình. Bộ phận tạo hình là những tấm thép hình sóng, đơn giản hoặc có các hình mẫu, đặt xen kẽ vào các tấm amiăng ướt, có thể thực hiện bằng máy tạo hình hoặc thủ công. Phần rìa của tấm amiăng bị cắt ra hoặc các tấm hỏng trong quá trình định hình được đưa lại về máy đánh tơi để tái sử dụng.

Công đoạn dưỡng hộ

Dưỡng hộ tấm lợp amiăng xi măng được thực hiện bằng nước, hơi nước hoặc chính độ ẩm của không khí. Tấm lợp amiăng có thể được dưỡng hộ tự nhiên (phơi và phun nước) ngoài trời khoảng 28 ngày, sau đó chuyển đến nơi tiêu thụ.

Không xả nước thải công nghiệp ra môi trường

Theo báo cáo khảo sát của Công ty Cổ phần Tấm lợp Bạch Đằng (Nam Định), trong sản xuất tấm lơp phibro xi măng, nước thải sản xuất phát sinh từ máy nghiền, máy trộn, và xeo cán có độ pH cao. Toàn bộ nước thải công nghiệp được đi qua hệ thống lọc tự động hoá để xử lý, sau khi nước thải sẽ được tập kết tại các bể chứa với nồng độ pH đạt tiêu chuẩn cho phép. Nước tại các bể chứa này sẽ được đưa vào quá trình tái sử dụng khép kín với chu trình như cũ nhằm tận dụng nguyên liệu và đảm bảo nước được xử lý trong môi trường khép kín, không xả thải ra môi trường.

{keywords}

Sợi amiăng trắng trong tấm lợp fibro xi măng

Theo PGS.TS Lương Đức Long - Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng, các sợi amiăng trắng có cấu trúc rỗng nên chất kết dính như xi-măng sẽ lấp đầy các sợi này, tạo ra sự liên kết rất bền vững, chặt chẽ, khó phá hủy và rất khó để phát tán ra môi trường.

Tại Việt Nam, từ năm 2010 đến 2014, Bệnh viện Xây dựng - Bộ Xây dựng đã tiến hành điều tra về tình hình sức khỏe người dân tại xã Tân Trịnh và các xã thuộc huyện Quang Bình - Tỉnh Hà Giang (tổng số 1.046 hộ, và 4.565 nhân khẩu), nơi có tới 70% số hộ gia đình sống cả đời dưới mái nhà lợp tấm lợp phibro xi măng.

Kết quả điều tra cho thấy, trong các xã thuộc huyện Quang Bình, xã Tân Trịnh có tỷ suất tử vong thấp hơn so với toàn huyện. Đặc điểm và tỷ suất tử vong do ung thư ở xã Tân Trịnh cũng chỉ đứng hàng thứ 5 trong 13 xã thuộc huyện Quang Bình (0.858%) nhưng vẫn trong giới hạn bình thường và chiếm tỷ lệ thấp hơn so với tỷ lệ chung toàn huyện. Phân tích mẫu không khí trong nhà người dân lợp mái bằng tấm lợp amiăng xi măng không tìm thấy sợi amiăng trắng.

Thanh Loan