Ở Việt Nam hiện nay, việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa đang trở thành một yêu cầu cấp thiết.

{keywords}
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với các tiêu chí nông thôn mới 

Tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), công nghiệp văn hóa đã được đề cập chính thức trong Nghị quyết 33-NQ/TW, ngày 09-6-2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Trong đó, phát triển công nghiệp văn hóa được xác định là một trong những nhiệm vụ cụ thể.

Năm 2016, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đây là một bước tiến rất lớn kể từ khi chúng ta xác định rõ ràng về tầm quan trọng của các ngành kinh tế sáng tạo trong tổng thể phát triển kinh tế tri thức, là văn bản pháp lý cụ thể mở đường cho sự cất cánh của các ngành kinh tế dựa trên sức sáng tạo của cá nhân của mỗi người Việt Nam.

Theo Quyết định số 1755/QĐ-TTg, phát triển công nghiệp văn hóa gồm 12 lĩnh vực bao gồm: Quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa.

Mục tiêu cụ thể phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam như sau: “Phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 3% cho GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, cụ thể các ngành như: Điện ảnh đạt 150 triệu USD; Nghệ thuật biểu diễn đạt 16 triệu USD; Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm đạt 80 triệu USD; Quảng cáo đạt 1.500 triệu USD; Du lịch văn hóa chiếm 10 - 15% trong số 18.000 triệu USD doanh thu từ khách du lịch”.

Việt Nam được đánh giá là mảnh đất giàu truyền thống và đa dạng văn hóa. 54 dân tộc anh em cùng lịch sử hàng nghìn năm để tạo ra một kho tàng vô giá về di tích, nghi lễ, lễ hội, trò chơi dân gian, thủ công truyền thống, dân ca, dân vũ, ẩm thực, phong tục tập quán, truyền thuyết, hình tượng anh hùng... 

Tuy nhiên, chúng ta có khá nhiều điểm nghẽn trong khai thác công nghiệp văn hóa. Đầu tiên chính là nhận thức của chúng ta về các ngành công nghiệp văn hóa cho dù thời gian qua nhận thức đối với công nghiệp văn hóa đã có nhiều thay đổi cơ bản.

Theo PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương, Phó Viện trường phụ trách Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia, “Việt Nam có quy mô dân số gần 100 triệu người là một thị trường tiềm năng các sản phẩm công nghiệp văn hóa nội địa, nhưng thực tế cho thấy, sức tiêu dùng của người Việt đối với các sản phẩm công nghiệp văn hóa vẫn ưu ái hàng “ngoại” nhiều hơn “nội”. Có thể thấy, các sản phẩm công nghiệp văn hóa Việt Nam thiếu đi sự độc đáo, tính ứng dụng và cách thể hiện sống động bản sắc văn hóa. Do đó, chưa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và tiêu dùng văn hóa ngày càng cao người dân trong nước. Điều này dẫn đến thị trường văn hóa trong nước đang bị xâm lấn bởi các sản phẩm công nghiệp văn hóa đến từ các cường quốc văn hóa cùng khu vực châu Á với Việt Nam như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc”.

Chỉ ra những điểm nghẽn trong khai thác công nghiệp văn hóa của Việt Nam, PGS TS  Bùi Hòai Sơn cho rằng, chúng ta vẫn thiếu sự phối hợp trong phát triển công nghiệp văn hóa. Đến thời điểm này, sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa còn gặp khó khăn vì chưa thật sự có đầu mối đủ mạnh để định hướng sự phát triển này.

Cụ thể, trong 12 ngành, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ quản lý năm ngành gồm: điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, quảng cáo, du lịch văn hóa. Điện ảnh thì có thể tạo ra sự hấp dẫn cho du lịch văn hóa, tạo điều kiện phát triển thời trang, ẩm thực. Du lịch văn hóa lại giúp phát triển các lĩnh vực khác trong xã hội. Vì thế, việc thiếu đầu mối đủ tầm và phối hợp giữa các ngành với nhau khiến việc phát triển công nghiệp văn hóa gặp nhiều khó khăn.

Ngoài ra, sự phối hợp công-tư cũng chịu nhiều cản trở, trong đó có cả việc thiếu niềm tin lẫn nhau và sự hỗ trợ chính sách của Nhà nước. Những mô hình đầu tư, hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo đa phần là tự phát, đến từ niềm đam mê của các cá nhân yêu thích sáng tạo, mong muốn tìm ra điều mới mẻ cho cuộc sống và công việc kinh doanh. Nhưng bầu nhiệt huyết của họ sẽ gặp khó khăn khi thiếu đi sự hỗ trợ từ chính quyền hay của chính các doanh nghiệp tương tự trong mạng lưới sáng tạo. 

"Để mong muốn “cất cánh” trở thành sự thật, còn rất nhiều việc phải làm, trong đó có chính sách thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Chính sách đầu tiên nên đến từ việc huy động sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp, trong việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Hợp tác công-tư là một hình thức nên được triển khai rộng rãi hơn nữa để thúc đẩy sự tham gia này. Một thí dụ cho thấy, điện ảnh Việt Nam trong những năm vừa qua bất chấp việc các hãng phim truyện nhà nước gặp khó khăn, vẫn có những khởi sắc nhất định từ đóng góp của các hãng phim tư nhân. Bên cạnh đó, điều quan trọng để tạo ra các chính sách thu hút đầu tư chính là việc chúng ta cần phải coi đầu tư vào văn hóa là đầu tư phát triển, không phải là lĩnh vực tiêu tiền, mà thậm chí đem lại nhiều tiền cho đất nước. Chỉ từ nhận thức như vậy, chúng ta mới hình thành các chính sách thu hút đầu tư phù hợp", PGS TS Bùi Hòai Sơn góp bàn.

Hồ Lợi