Nguyên Ngọc viết trong im lặng nhưng luôn luôn tự “mở chiến dịch” và “ra các mũi tấn công!”. Đã “tấn công” là không có chuyện bàn lùi.

Ông tự đặt mình vào giữa điểm nóng của các sự kiện trong câu chuyện và lao vào đó, tựa hồ như có bom, có đạn, có chông thò cạm bẫy, có địch, có ta và ông là vị chỉ huy.

Sáng tác văn học đối với ông là chiến đấu. Một cuộc chiến đấu quyết liệt giữa nhà văn và tư tưởng xã hội; giữa nhà văn và trách nhiệm công dân; giữa nhà văn và nhiệm vụ cách mạng... Trong chiến đấu có thắng có thua, có tiến, có lui. Trong sáng tác văn học cũng vậy. Đối với ông, không có chuyện “thua” một cách đơn giản. Mọi liên hệ trong quá trình sáng tác của ông đều có liên quan tới chiến tranh, tới cuộc chiến đấu thần thánh của dân tộc chống ngoại xâm. Cũng như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải... Các ông là những nhà văn con đẻ của cách mạng.

Thành công vang dội của cuốn tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” đã nhanh chóng vượt ra ngoài biên giới. Núp tiểu thuyết đến tay các chiến sĩ du kích Mỹ Latinh và anh hùng Núp thật cùng lúc sang Cu Ba gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm chiến đấu với các bạn và người ta quên mất ranh giới giữa tiểu thuyết và cuộc đời, giữa hình tượng người anh hùng được nhà văn hư cấu xây dựng nên, với cái con người bằng xương bằng thịt kia. Ngay cả anh hùng Núp cũng tự thấy mình đúng là mình, đúng là người vừa mới bước ra khỏi cuộc chiến đấu cũng y như vừa mới bước ra khỏi trang sách vậy.

{keywords} 

Ra đời cùng lúc với nhiều truyện, ký, nhiều tiểu thuyết viết về anh hùng chiến sĩ thi đua, với những tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, tinh thần quả cảm của người thật, việc thật, nhưng “Đất nước đứng lên” đã nhanh chóng tách đàn vượt lên, ào vào đời sống một cách hồn nhiên nhờ sức mạnh của cảm hứng sáng tạo giàu chất thơ với một bút pháp trữ tình, lãng mạn, hào hùng, vượt lên trên tất cả những cái có thực và cả những cái không có thực để dựng nên một hình tượng thực hơn thực mà lại rất thực, đó là anh hùng Núp.

Quan hệ tiểu thuyết giữa nhà văn Nguyên Ngọc với nhân vật Núp sau khi tác phẩm đã được xã hội hóa, được đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước đón nhận rộn ràng thì chính ông và anh hùng Núp đã trở nên thân thiết suồng sã tới mức, có lần boók Núp nói vui với tôi rằng: “Không có Ngọc thì không có Núp. Không có Núp thì không có Ngọc”.

Vâng, sự thực tuy mới chỉ là một nửa, nhưng ta vẫn thấy rõ tấm lòng của anh hùng Núp khi được thấy mình là Núp văn học nó cũng giản dị và vinh quang biết chừng nào. Sở dĩ tôi nói cái “sự thực tuy mới một nửa” là vì, tôi lại cho rằng nửa đầu câu nói của boók Núp là rất đúng, nhưng nửa sau thì theo tôi chưa chắc. Tôi tin rằng, cùng với tài năng luôn luôn được khí thế cách mạng hun nóng của ông, thì ngày ấy, nếu được tổ chức giao cho ông viết về Mạc Thị Bưởi hay Ngô Mây, nhất định chúng ta sẽ có một Mạc Thị Bưởi, một Ngô Mây khác với Mạc Thị Bưởi và Ngô Mây như chúng ta đã có.

Tôi rất tâm đắc với câu kết luận có tính chất tổng kết của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, khi ông giảng về tiểu thuyết và quan hệ tiểu thuyết. Ông cho rằng thành công của tiểu thuyết chính là thành công của quá trình quan hệ giữa tác giả với nhân vật. Mối quan hệ đó càng mật thiết, càng trở nên suồng sã bao nhiêu thì mức độ thành công của tác phẩm càng được đánh giá cao bấy nhiêu.

Tôi có cái may mắn là đã được ở chung cùng một đơn vị với boók Núp, khi tôi được biên chế về huyện đội Khu 10, theo cách gọi thời chiến tranh, bây giờ là huyện KBang, tỉnh Gia Lai. Và tôi lại cũng đã từng có một thời gian ở chung với nhà văn Nguyên Ngọc, khi được điều về dự trại sáng tác văn học của Quân khu 5.

Tôi nhớ mãi cái đêm tôi và nhà văn Nay Nô từ Gia Lai lội bộ đường rừng cả tháng trời để về tới nước Oa, nước Ồ (Nước Oa, Nước Ồ là Suối Nước Oa, Suối Nước Ồ, tên hai con suối nổi tiếng của vùng Chiến khu V thời chống Mỹ ở Quảng Nam) thuộc tỉnh Quảng Nam thì được nhà văn Nguyên Ngọc và nhà văn Nguyễn Chí Trung đón sẵn từ trên bờ sông, khi hai chúng tôi vừa lội qua.

Cuộc hội ngộ chân phương, giản dị, không phân biệt tuổi tác, cấp bậc, chức vụ được diễn ra bằng cái ôm riết quay tròn, không ai để ý tới chuyện người này đang khô, người kia đang ướt sũng.

Lúc đó, tôi chưa một lần được gặp Nguyên Ngọc nhưng tất cả những gì ông viết ra đã gần như là một thứ cẩm nang cho cuộc đời lính tráng giàu lý tưởng của tôi. Tôi mê “Đường chúng ta đi” như mê chính cuộc chiến tranh thần thánh chống ngoại xâm của dân tộc. Tôi mê “Rừng Xà-Nu” như tôi vẫn say mê sống với bà con các buôn làng. Hạnh phúc được gặp ông đối với tôi khi ấy là quá lớn, vượt ra ngoài sức tưởng tượng của tôi, khiến tôi luống cuống .

- “Này, - ông nói khi thấy nhà văn Nguyễn Chí Trung nhắc tới cái truyện ngắn của tôi mới được in trên “Văn nghệ Quân giải phóng miền Trung Trung Bộ”, - truyện ấy của cậu mà có sức, đẩy được nó đến tận cùng thì mới gọi là hay được”.

Hồi ấy, thú thực, được in truyện, được các bậc liền anh bàn về cái truyện của mình, đối với tôi là quá sung sướng, quá thỏa mãn rồi.

- “Cả “Ở Ro” nữa, - ông quay sang Nay Nô, tác giả cái truyện ngắn ấy, - truyện ấy đặc sắc và lạ lùng lắm. Chỉ tiếc cậu không đi tới tận cùng số phận của nhân vật, thành thử nó mới dừng lại ở già ký, non truyện”.

Sau này đã trở thành khá thân thiết, mỗi lần nói tới chuyện viết lách, ông vẫn thường nhắc tôi, văn học chỉ trở thành văn học theo đúng nghĩa của nó, ấy là những tác phẩm được sáng tác bởi sự bứt phá khỏi hiện thực của trí tưởng tượng, của tấm lòng yêu cuộc sống đến tận cùng của nhà nghệ sĩ.

Nghệ sĩ khi sáng tác chính là khi anh ta tự vắt kiệt sức mình hiến dâng cho cuộc sống. Theo ông, bản chất của nghệ sĩ là hy sinh. Ông không tin những người nói, cái chi tiết này tôi để dành cho cái truyện này, cái chi tiết kia, tôi để dành cho tác phẩm kia. Theo ông, nhà văn không có của để dành. Anh ta sẵn sàng hiến dâng trọn vốn sống của mình cho tác phẩm mà anh ta đang viết, dù đó chỉ là một truyện ngắn.

Trạng thái hụt hẫng của nghệ sĩ sau khi dồn hết tâm lực vào tác phẩm vừa hoàn thành vì vậy mà có thật, rất đáng được trân trọng. Sự gậm nhấm thành công của một vài tác giả sẽ đẩy anh ta tới ngõ cụt sáng tạo, nhưng cũng cần hiểu là, người nghệ sĩ chân chính không phải ai cũng dễ dàng khiêm tốn.

Bản chất của sự khiêm tốn không phải là làm thỏa mãn sự kiêu ngạo của một số kẻ hãnh tiến. Bản chất của sự khiêm tốn là chân thực. Ông ít nói tới kỹ thuật viết, nhưng ông đặc biệt quan tâm tới cái cốt lõi của nghề viết văn, ấy là tấm lòng, ấy là mối tình cảm của người viết đối với đối tượng mà anh ta miêu tả.

Có thể nói lai lịch cuộc đời nhà văn Nguyên Ngọc gắn liền với những chuyến đi, gắn liền với sự tham gia trực tiếp vào các công việc của cán bộ cấp trên đối với các cán bộ cơ sở, dù đó là thời chiến hay thời bình. Dù lúc ông đang nắm giữ một vài chức vụ hay khi đã về hưu.

Nguyên Ngọc là người hiếu động. Ông không bao giờ chịu ngồi không, chịu dừng lại. Hạnh phúc của ông là làm việc. Nỗi buồn của ông cũng là nỗi buồn của công việc. Nguyên Ngọc là con người của công tác. Công tác sáng tác văn học, đó là một khái niệm được các nhà văn thời chiến đồng ý.

Nguyên Ngọc chính là người cán bộ sáng tác văn học tận tâm, tận lực. Ông dường như được sinh ra để lãnh những nhiệm vụ như vậy, đặc biệt là trong chiến tranh. Nhưng chiến tranh không phải cái mà các nhà văn chọn, cũng như Nguyên Ngọc, mà chính là số phận. Làm trai thời chinh chiến, lớn lên trong loạn lạc chiến tranh, khẩu hiệu “Tổ quốc hay là chết” chính là cái mà chúng ta chọn.

Tôi tiếp cận Nguyên Ngọc trước hết bằng sự ngưỡng mộ những tác phẩm giầu thi hứng của ông. Sau nữa là bằng nghĩa tình “đồng hương Tây Nguyên, đồng hương khu 5”, thực chất đây là cái tình cán binh, đồng đội, mặc dù ông chưa hề là người chỉ huy trực tiếp của tôi ngày nào.

Đối với tôi, ông luôn luôn là một lực hấp dẫn. Mỗi lần được trò chuyện với ông về bất kỳ vấn đề gì tôi cũng cảm thấy như mình vừa được học thêm một bài học mới, tươi roi rói. Vốn tri thức của ông giàu có nhờ lúc nào ông cũng miệt mài đọc, miệt mài trau dồi qua khả năng tiếp nhận từ mọi nguồn thông tin, đặc biệt là sách tiếng Pháp.

Ông là người luôn có khả năng tổng kết, có lẽ do ông được sinh ra để làm cán bộ, để làm chỉ huy, dù ở cấp nhỏ (hay cả lúc ở cương vị tương đối quan trọng) - ấy là theo cách nhìn nhận của tôi. Những vấn đề thuộc về lĩnh vực văn nghệ và mối quan hệ giữa văn nghệ với chính trị, mà nhiều người cho là gai góc, tế nhị, nên tránh, thì ông không những không tránh mà còn xông thẳng vào, như chính ông đã từng xông thẳng vào những điểm nóng nhất của phong trào cách mạng để công tác, để chiến đấu và để sáng tác.

Ông vốn là con người hiếu động, ham làm việc, làm việc gì dù nhỏ, ông cũng làm một cách toàn tâm toàn lực, dốc hết tâm huyết để tiến hành một cách căng thẳng, quyết liệt, tới cùng, đầy tự tin. Ông tin ở tấm lòng yêu nghề chân thành của mình. Ông tin ở bạn bè đồng nghiệp.

Ông tin ở cấp trên, và tin ở cấp dưới cũng giống như ông, khi có cùng một khát khao xây dựng một nền văn học cách mạng không phải chỉ có một màu hồng, không phải chỉ có một giọng ngợi ca mà còn cần phải có những tác phẩm chân thực hơn, sâu sắc hơn xứng đáng với những hy sinh mất mát của đồng chí, đồng bào.

Đã thành lệ, như một quy ước không thành văn, hễ cứ xa Hà Nội độ chừng dăm bữa nửa tháng trở lên, trước khi đi hoặc sau khi về, thế nào tôi cũng mò tới “thăm” ông. Cái cách “đi lại” của tôi đối với ông là một nhu cầu tự thân, kể từ sau ngày tôi được định cư tại Thủ đô, bất kể lúc ông làm cán bộ to - theo cách nhìn nhận của tôi - hay khi ông chẳng còn tí chức vụ gì, thì cái “lệ” mọn ấy cho tới nay vẫn được duy trì.

Tôi gặp ông để kể về những chuyến đi xa về gần của mình, đặc biệt là những chuyện ở Tây Nguyên. Và sau đó là nghe. Tôi nghe ông kể về những chuyện ông mới đọc được, những tác giả mới nhất cùng những vấn đề nóng nhất của tình hình văn học trong nước và thế giới.

Gặp ông, bắt chuyện được với ông, tôi luôn luôn ở trạng thái một cậu lính nghe thủ trưởng của mình truyền đạt kiến thức, truyền đạt ý tưởng, mặc dù không bao giờ ông có thái độ trịch thượng, kẻ cả. Ông thậm chí còn có ý thức “đọc hộ” cho tôi một vài loại tài liệu về dân tộc học mà tôi vì mù ngoại ngữ nên không tiếp cận được.

Ông không chỉ là nhà văn sáng tác mà ông còn là một nhà nghiên cứu văn học với một năng lực nhạy cảm và một kiến thức uyên bác ít có. Với ông, nhà văn đồng thời phải là nhà nghiên cứu văn học. Trước hết phải là đọc, ông nhấn mạnh. Đọc và suy ngẫm.

Nguyên Ngọc dịch văn và tiểu luận J.P.Satre và Kundera cũng căng thẳng và quyết liệt như chính ông đang vật lộn với các sáng tác của mình. Sự tự nguyện dấn thân vào thế giới tư tưởng của các nhà văn lớn không làm ông mệt mỏi mà chính vì có sự dấn thân ấy, đã khiến ông vững tin hơn ở thế giới tinh thần bất diệt của con người.

(Theo Tiền Phong)