- Biết mười mươi những cái rất tốt nhưng vẫn không thể vượt qua được rào cản về tâm lý lẫn cơ chế chính sách. Đó là nỗi đắng cay của những người làm quản lý và những nhà khoa học Việt Nam, theo Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Nguyễn Quân.

Tại cuộc họp báo thường kỳ được Bộ Khoa học Công nghệ (KHCN) tổ chức lần đầu tiên ngày 9/10 vừa qua, nhiều vấn đề liên quan tới thực trạng của nền KHCN tại Việt Nam đã được chính vị tư lệnh ngành mổ xẻ.

Ai cũng biết nhà khoa học buộc phải nói dối

{keywords}
"Ai cũng biết nhà khoa học đang nói dối nhưng lại mặc nhiên chấp nhận", Bộ trưởng Nguyễn Quân nói.

Khẳng định Việt Nam có nhiều thành tự KHCN “không phải thấp kém”, ông Nguyễn Quân cho rằng, vấn đề là Việt Nam vẫn chưa tạo điều kiện tốt nhất cho những người làm khoa học, đặc biệt là về tài chính.

Ông Quân dẫn lại câu chuyện hai cha con người nông dân Trần Quốc Hải sửa chữa và đóng thành công 12 xe bọc thép cho quân đội Campuchia và được nước này trao tặng huân chương "Đại tướng quân" được dư luận chú ý thời gian qua và cho rằng, Việt Nam không thể làm theo cách của nước láng giềng.

Liệu chúng ta có chấp nhận ngân sách nhà nước của Việt Nam giao cho một người nào đó, dù là nhà khoa học nổi tiếng 200 ngàn USD một cách thoải mái, không cần thẩm định, dự toán, không cần thuyết minh hay không?”, ông Quân đặt vấn đề. “Tôi nghĩ, chắc là chúng ta phải sửa luật ngân sách nhiều lắm”.

Ông Quân cho rằng nếu Campuchia với cơ chế tài chính thông thoáng, có thể lấy ngân sách nhà nước hàng triệu đô la mà không cần thuyết minh, dự toán, hóa đơn chứng từ, đấu thầu tuyển chọn thì cũng là điều mà Việt Nam cần nghiên cứu.

Một đơn vị quân đội có thể giao hàng triệu đô la cho một nông dân nước ngoài mà không cần đảm bảo gì cả thì chúng ta cũng phải nghiên cứu xem chúng ta có lạc hậu quá không?”, ông Quân nói. “Tuy nhiên, tôi tin là Bộ Tài chính và Quốc hội Việt Nam không chấp nhận kiểu làm khoa học như vậy”.

Theo ông Quân, ở Việt Nam, Luật KHCN năm 2013 đã có cơ chế khoán chi tới sản phẩm cuối cùng, tạo điều kiện để người làm khoa học không bị lệ thuộc vào hóa đơn, chứng từ hay tình trạng quá nhiều cấp phê duyệt, đá qua đá lại. Tuy nhiên, khi đưa cơ chế khoán vào thực tế thì nó vẫn vấp phải những rào cản của cơ chế và tư duy cũ.

Ông Quân cho biết, một khi đã khoán sản phẩm cuối cùng thì “đầu vào” đã được kiểm soát chặt chẽ và quan trọng là chúng ta phải tin tưởng nhà khoa học. Còn trong quá trình làm, họ có thể tiết kiệm khoản này để chi cho khoản kia, miễn là không làm phát sinh thêm tiền của nhà nước.

Họ không ở khách sạn 5 sao thì có thể dùng tiền mua máy tốt hơn. Họ có thể không tổ chức mười hội thảo mà chỉ tổ chức 1 hội thảo với chất lượng tốt hơn. Vì sao chúng ta cứ bắt buộc họ tổ chức 10 hội thảo và ký mỗi hội thảo đủ 3 tờ định mức?”, ông Quân đặt vấn đề.

Ông Quân cho rằng, những quy định chặt chẽ, cứng nhắc trong vấn đề thủ tục, hóa đơn, chứng từ không những không tiết kiệm ngân sách mà chỉ khiến nhà khoa học buộc phải nói dối. “Chúng ta đều biết các nhà khoa học đang nói dối nhưng chúng ta mặc nhiên chấp nhận việc nói dối ấy”, ông nói thêm.

Vị tư lệnh ngành KHCN cho rằng, các nhà quản lý như ông đều biết những cái lợi của cơ chế khoán chi, song không thể vượt qua được rào cản về tâm lý cũng như cơ chế chính sách.

Biết rằng khoán là tốt nhưng cơ chế chính sách không cho khoán. Biết là đầu tư mạo hiểm là ra được như sản phẩm như Google hay Microsoft. Nhưng luật không cho làm quỹ đầu tư mạo hiểm. Thế giới người ta làm cả rồi, thế giới khoán hết rồi, thế giới đầu tư mạo hiểm rồi nhưng Việt Nam thì chưa. Đấy là đắng cay của những người làm quản lý, đắng cay của những người làm khoa học”, ông Quân chia sẻ.

Việt Nam đâu phải toàn “tiến sĩ giấy”

Nói về vấn đề nhiều người cho rằng, Việt Nam có 24 ngàn tiến sĩ nhưng không có nhiều bằng sáng chế được công bố, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng, nhận định như vậy là “không công bằng”.

{keywords}
Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng, nói Việt Nam toàn tiến sĩ giấy là không công bằng.

Theo ông Quân, con số 24 ngàn tiến sĩ là tổng số tiến sĩ chúng ta đào tạo được kể từ khi lập nước đến nay chứ không phải số tiến sĩ đang làm việc. Theo ông, chỉ khoảng một nửa số này đang thực sự làm việc.

Chưa kể, trong số một nửa còn làm việc này thì không phải ai cũng làm khoa học thực sự. “Hiện tại chỉ có 24% số tiến sĩ thuộc lĩnh vực kỹ thuật – công nghệ. 76% còn lại thuộc về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, quản trị doanh nghiệp, triết học… Đó là những lĩnh vực không thể có sáng chế được”, ông Quân nói.

Trong khi đó, việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ ở Việt Nam còn rất ít và chủ yếu là dựa vào ngân sách nhà nước.

Việt Nam chỉ chi 2% tổng chi ngân sách cho KHCN nhưng trong 2% này thì chỉ có hơn 10% giành cho hoạt động nghiên cứu, triển khai thực sự. Gần 90% còn lại chi cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên.

Theo ông Quân, chúng ta hay nói Hàn Quốc mỗi năm có hàng ngàn bằng sáng chế nhưng chúng ta cũng nên biết rằng, chỉ riêng Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc mỗi năm đã đầu tư khoảng 1 tỷ USD cho hoạt động nghiên cứu, nhiều hơn gấp 5 lần tổng ngân sách Việt Nam chi cho KHCN.

Bên cạnh đó, ông Quân cho rằng, hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ của Việt Nam còn rất yếu kém. “Nhiều người nghiên cứu có kết quả nhưng không dám công bố, không dám đăng ký bảo hộ sáng chế. Bởi vì công bố là mất ngay, bị làm nhái ngay mà không ai có thể bảo vệ được”, ông Quân nói.

Ngoài ra, để công bố quốc tế một bài báo hoặc một sáng chế cũng cần có tiền để thuê công ty tư vấn làm bản thuyết minh, mô tả. “Đăng ký sáng chế ở Mỹ phải mất cả vài ngàn đô thậm chí vài chục ngàn đô. Trong khi đó, luật pháp của chúng ta không có quy định nào chi cho việc đăng ký sáng chế cả”, ông Quân giải thích.

Mặc dù trong điều kiện tài chính, cơ chế chính sách còn nhiều ràng buộc, nhưng theo ông Quân vị trí của KHCN Việt Nam đang ở mức trung bình của thế giới chứ “không đến nỗi xám xịt” như nhiều người nghĩ.

Ông Quân dẫn chứng, nhiều nghiên cứu, phát minh quan trọng của các nhà khoa học Việt Nam được thế giới công nhận song lại không được xã hội chú ý. Chẳng hạn như Việt Nam là một trong 4 quốc gia trên thế giới sản xuất vaccine Rota chữa tiêu chảy hay là nước thứ 3 ở Châu Á làm được giàn khoan tự nâng 90 và 120 mét nước…

Bên cạnh đó, theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới, trong khi chúng ta xếp hạng thứ 132 trong số 143 quốc gia về kinh tế thì về KHCN, chúng ta xếp hạng 71/143 quốc gia (tăng 5 bậc so với 2013). Còn trong số các nước có thu nhập trung bình thấp, dưới 3.000 USD/người thì chúng ta xếp thứ 5/33.

Thừa nhận vị trí về KHCN của Việt Nam vẫn còn thấp và KHCN vẫn còn nhiều yếu kém, song Bộ trưởng Nguyễn Quân cũng cho rằng, nó vẫn có những điểm sáng và cả những nền tương đối sáng.

Ít nhất là chúng ta đang đứng ở vị trí trung bình của thế giới so với vị trí môi trường đầu tư và kinh tế ở cuối bảng của thế giới”, ông Quân khẳng định.

Lê Văn